Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế điều tiết, cơ chế phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Ngày phát hành: 22/05/2019 Lượt xem 2743

1. Thành tựu

Qua hơn 30 năm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế kinh tế, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả. Trong 30 năm đổi mới, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013 cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý hình thành và thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là khẳng định nguyên tắc nền kinh tế có chế độ đa sở hữu, đa thành phần, nhiều hình thức phân phối; khẳng định nguyên tắc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và vận hành thông suốt các loại thị trường; khẳng định nguyên tắc Nhà nước quản lý nền kinh tế theo theo các nguyên tắc của cơ chế thị trường; khẳng định nguyên tắc đảm bảo thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường; khẳng định nguyên tắc mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Ba mươi năm đổi mới kinh tế cũng đã chứng kiến vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Kinh tế nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu.

Các tổ chức xã hội-nghề nghiệp không ngừng phát triển và ngày càng phát huy vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực được hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn, đổi mới cả trong nhận thức và thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường.

Qua hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu hàng hóa-thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hoàn thiện về quy mô, cơ cấu hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh. Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng. Tính chung từ 2006 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân của thương mại bán lẻ luôn cao từ 1,5-2 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Thị trường tài chính, tiền tệ phát triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân hàng, thị trường chứng khoán đã bước đầu hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích cực vào việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ giá đồng tiền, giá ngoại tệ, giá vàng cơ bản giữ được ổn định. Thị trường bất động sản đã có bước phát triển nhất định, nhiều dự án khu nhà ở, khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tương đối đồng bộ đã được hình thành, góp phần đô thị hóa và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Thị trường lao động đã được hình thành trên phạm vi cả nước. Thị trường khoa học - công nghệ đang hình thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch công nghệ có bước tiến đáng kể trong những năm gần đây. Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản, nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước tham gia.

Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất-kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển.So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt  hơn 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996-2000, mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm.Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Giai đoạn 3 năm 2016 – 2018, GDP bình quân tăng 6,57% (chỉ tiêu kế hoạch  5 năm là 6,5 - 7%).

Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển.Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 3 năm 2016-2018 ước đạt 33,5% (mục tiêu 5 năm 32-34%). Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nướcgiảm; tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước tăng, trong đó đầu tư tư nhân ước đạt 42,4%, bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 40,8%, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (38,3%). Vốn FDI thực hiện ước cả năm đạt 18 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Đã tổng kết 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, đề ra các giải pháp mới, thu hút chọn lọc hơn, ưu tiên các lĩnh vực chế biến chế tạo, sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tăng; chỉ số ICOR giai đoạn 2016-2018 ở mức 6,32, thấp hơn giai đoạn 2011 - 2015 (6,91).

Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; thực hiện chủ trương cắt giảm tối thiểu 50% thủ tục hành chính, trong đó đã cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu. Rà soát, giảm chi phí kinh doanh, nhất là chi phí vốn, phí BOT, chi phí tuân thủ thủ tục hành chính gắn với triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp; Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 10 quốc gia cam kết mạnh mẽ nhất về cải cách chính sách thuế. Cả năm có khoảng 130 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới.Số lượng hợp tác xã thành lập mới tăng nhanh; doanh thu và thu nhập của người lao động được cải thiện, góp phần giảm nghèo, giữ ổn định xã hội.

Thay vì trực tiếp can thiệp vào nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, nhà nước đã tiến hành xây dựng khung chỉ tiêu giám sát, đánh giá và đề ra định hướng cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Ban hành và triển khai thực hiện hiệu quả. Đề án cơ cấu lại đầu tư công, giảm tình trạng đầu tư dàn trải, nợ đọng xây dựng cơ bản, ưu tiên bố trí vốn cho các công trình trọng điểm, cấp bách; rà soát, xử lý những vướng mắc trong đầu tư công, đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Quyết liệt thực hiện các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu theo Nghị quyết của Quốc hội và Luật các tổ chức tín dụng; Tập trung khắc phục hạn chế, bất cập; xử lý nghiêm các sai phạm, thu hồi tài sản Nhà nước. Thành lập, đưa vào hoạt động Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh từ 17,4% năm 2015 xuống14,8% năm 2018; tỷ trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng từ 82,6% lên 85,2%, vượt mục tiêu đề ra vào năm 2020 là 85%. Xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp.

Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2016-2018 ước đạt 42,18%, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (33,58%) và vượt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 (30 - 35%). Năng suất lao động bình quân 3 năm 2016-2018 tăng 5,62%, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,35%) và vượt mục tiêu kế hoạch 2016-2020 (5%).Với xu hướng tốt như hiện nay, tăng trưởng GDP giai đoạn 2016 - 2020 có thể sẽ đạt mục tiêu Quốc hội đề ra là 6,5 - 7%, cao hơn bình quân giai đoạn 2011 - 2015 (5,91%).Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2018 ước đạt trên 5,5 triệu tỷ đồng (khoảng 240,5 tỷ USD), gấp trên 1,3 lần năm 2015. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015. Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam có triển vọng tốt,là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới.

Việc tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu-nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.

An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều khó khăn, Việt Nam đã tăng thêm ngân sách và huy động nguồn lực để thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.

Cho đến nay, đã có khoảng 70 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương (gồm sáu FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; bốn FTA đàm phán với tư cách là một bên độc lập); vừa hoàn tất đàm phán hai FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán ba FTA khác (ASEAN-Hong Kong; EFTA; RCEP).Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy.

Một cách khái quát, qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có việc xác định vai trò của nhà nước trong điều hành nền kinh tế đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.

2. Hạn chế

Những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong hơn 30 năm qua đã làm thay đổi bộ mặt quốc gia; đất nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình, và đang phấn đấu thành nước có thu nhập trung bình cao đến 2030. Tuy nhiên, thực tế, tình trạng nhà nước làm thay thị trường, thu hẹp vai trò của cơ chế thị trường và chưa thực hiện tốt chức năng khắc phục những khiếm khuyết của cơ chế thị trường vẫn còn ở nhiều lĩnh vực: trong phân bổ nguồn lực; điều tiết lưu thông hoàng hóa; xác định giá cả; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp…, làm méo mó cơ chế thị trường (hiện nay, các thị trường đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động ở nước ta đều bị “méo mó”). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa XII “về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”  đã phải nhấn mạnh yêu cầu xác định rõ “vai trò, chức năng, mối quan hệ của nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với cơ chế thị trường”. Những hạn chế này thể hiện ở một số điểm nổi bật sau:

Một là, trong hơn 30 năm qua vai trò, chức năng quản lý, điều tiết của Nhà nước chưa thực sự được đổi mới căn bản theo mô hình kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi mô hình nền kinh tế đồng thời thực hiện vai trò “kép”: Một mặt, thực hiện chức năng vai trò quản lý toàn bộ nền kinh tế; mặt khác, đóng vai trò người chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước và đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu đất đai. Ở góc độ thứ nhất, Nhà nước phải thực hiện đầy đủ vai trò của “người nhạc trưởng”, tạo môi trường bình đẳng cho sự phát triển các thành phần kinh tế nhằm huy động và phân bổ các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Theo đó, Nhà nước khi thực hiện chức năng của mình, phải thể hiện vai trò của “Nhà nước kiến tạo, phát triển”. Nhưng ở góc độ thứ hai, Nhà nước thường quan tâm đến mở rộng phạm vi và quy mô sở hữu của mình, phát triển các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, bằng các biện pháp hành chính. 

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước phải được thể hiện ở hai góc độ: quyền sở hữu pháp lý (danh nghĩa) và quyền sử dụng thực tế. Ở góc độ quyền sở hữu pháp lý, Nhà nước có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu của mình. Ở góc độ quyền sử dụng thực tế, Nhà nước phải xây dựng và phát triển những tổ chức quản lý có hiệu quả tài sản và vốn của Nhà nước giao phó. Tuy nhiên các quy định về quyền sở hữu và quyền quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và khu vực kinh tế nhà nước nói chung chưa đạt được sự thống nhất, tạo ra khoảng trống trong quản lý, kiểm soát và phân phối tại khu vực kinh tế này. Trong hơn 30 năm thực hiện quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động của các DNNN theo cơ chế thị trường, khu vực kinh tế nhà nước vẫn bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề như: việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; cơ chế giám sát, công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa tốt; khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ nhà nước; nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho dịch vụ công, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ công vẫn còn một số bất cập.

Việc sử dụng các công cụ điều tiết nền kinh tế của nhà nước còn bất cập, công cụ pháp luật chưa ổn định, nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế; chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính; hiệu quả của phối hợp chính sách tiền tệ  và chính sách tài khóa thời gian vừa qua còn bộc lộ những hạn chế và đối mặt với một số thách thức; việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách  chưa được thiết lập một cách chính thức; lực lượng vật chất của nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí,  vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường; quy hoạch, kế hoạch của nhà nước chưa bảo đảm cho đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thống nhất được lợi ích nhà đầu tư và lợi ích nhà nước, giữa mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa phát triển đất nước, vùng và địa phương; hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia.

Chưa giải quyết được triệt đề vấn đề cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền và phát triển kinh tế tư nhân. Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tốn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Nhà nước dường như chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công; chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp tư nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế.

Nhìn một cách tổng thể, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm: Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin – cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các quyết định của mình. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ bị coi nhẹ, do đó, trong nhiều trường hợp, đáng lý là quan hệ cung cầu, thì quyền lực và sự duy ý chí lại đi trước dẫn dắt thị trường. Nhà nước dường như chưa đặt doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà đầu tư bình đẳng trên thị trường; nguồn lực nhà nước đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch chưa hoàn toàn tôn trọng quy luật thị trường, bị lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối, dẫn tới hiệu quả thấp.

Thứ hai là mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội vẫn còn không ít vấn đề đặt ra, cản trở sự phát triển.

Tổng kết 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam đã chỉ rõ hạn chế của mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường là: “Chưa làm sáng tỏ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng Nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn bao biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân bổ vốn; quản trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà Nhà nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung khổ hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hóa và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển,...)”(8). Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, Nhà nước đã can thiệp vào vai trò, chức năng của các chủ thể khác. Điển hình như, trong lĩnh vực quản lý kinh tế vĩ mô, vai trò quan trọng nhất của Nhà nước là định hướng mục tiêu phát triển, dự báo tình hình biến động của thị trường; kiểm soát độc quyền; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh…, nhưng Nhà nước không tập trung đúng mức, mà lại can thiệp vào vấn đề giá cả, tiền lương… đây là chức năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn còn duy trì chính sách bao cấp, cơ chế “xin - cho” của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp; vẫn duy trì những doanh nghiệp nhà nước độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh doanh cần chuyển sang thị trường cạnh tranh; vẫn tồn tại cung cách quản lý bao cấp, quan liêu, vẫn sử dụng nhiều chính sách trợ cấp, trợ giá theo kiểu cũ, không khuyến khích được tinh thần tự lập, tự cường của đối tượng được trợ cấp. Việc chậm thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị trường bằng các biện pháp hành chính, thay vì sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp để điều tiết thị trường cũng là một nguyên nhân khiến Nhà nước vận hành thị trường thiếu hiệu quả.

Trong thực tế, vai trò của các tổ chức xã hội tham gia cung cấp dịch vụ và thực hiện giám sát nhà nước và doanh nghiệp cũng chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được xác định rõ. Các hiệp hội, tổ chức đại diện cho khu vực tư vẫn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự có tiếng nói nhất định trong các tổ chức đại diện quyền lực của Nhà nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu ái” về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ gây bức xúc dư luận. Điều này do nhận thức về vai trò của hội đối với phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới chưa chuyển kịp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại. Mặt khác, thể chế về hội chưa thực sự được quan tâm ưu tiên, nghiên cứu để xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Không ít cơ quan nhà nước còn có tư tưởng băn khoăn, e ngại, thiếu niềm tin vào các hội nên chậm hoàn chỉnh thể chế để phát huy sự tham gia của các hội với đời sống chính trị- xã hội. Theo đó, cần đổi mới hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với các tổ chức xã hội.

Nguyên nhân của những hạn chế

Nguyên nhân thứ nhất thuộc về tư duy, quan điểm và chủ trương chính sách. Với cách tiếp cận nền kinh tế theo thành phần, nhấn mạnh và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Do chưa có định nghĩa một cách khách quan và khoa học, nên trên thực tế, “kinh tế nhà nước” thường được liệt kê thành các bộ phận bao gồm doanh nghiệp nhà nước và các nguồn lực khác do Nhà nước sở hữu (Ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, dự trữ quốc gia) và cả sự tác động của chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước,v.v… Theo định nghĩa nói trên, thì kinh tế nhà nước ở nước ta xét về hình thức không khác gì so với kinh tế nhà nước ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, “vai trò chủ đạo” trong nhiều trường hợp bị lạm dụng, bị hiểu sai hoặc cố tình hiểu chưa đúng, dẫn đến những hậu quả ngoài mong muốn và khó khắc phục trong quá trình điều hành trên thực tế.

Cũng từ nhận thức nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (một số trường hợp đồng nhất kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo với vai trò của DNNN), kéo theo việc định hình vai trò, chức năng của doanh nghiệp nhà nước và chính sách của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước. Một trong các thước đo mức độ đóng góp vào vai trò chủ đạo là tỷ trọng chi phối của các tập đoàn, tổng công ty trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước; và để đạt được điều đó, thì chính sách có liên quan của Nhà nước phải hỗ trợ, tạo điều kiện để đạt được mục đích đó, bất chấp các hệ quả phát sinh từ thực trạng nói trên. Tóm lại, những ưu ái, đặc quyền và lợi thế của tập đoàn, tổng công ty nhà nước trước hết bắt nguồn từ dòng tư duy, quan điểm chính thống về kinh tế nhà nước.

Nguyên nhân thứ hai thuộc về thể chế quản trị quốc gia. Có thể nói, còn rất nhiều vần đề liên quan đến thể chế quản trị quốc gia ở nước ta cần phải được nghiên cứu, thảo luận và thay đổi. Một số khiếm khuyết về thể chế đang hạn chế hoặc ngăn cản tác động kỷ luật của thị trường cạnh tranh đối với tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đó là:

(1) Thể chế hiện nay không tách biệt quản lý nhà nước (public dministration) với quản trị doanh nghiệp (corporate governance) và quản lý kinh doanh (business management), không tách biệt quản lý nhà nước với các thiết chế điều tiết độc lập đảm bảo cho thị trường vận hành một cách hiệu quả và công bằng (ví dụ Cục điều tiết điện lực hay Cục quản lý cạnh tranh,v.v.. không thể là bộ phận của Bộ công thương, mà phải là các cơ quan điều tiết độc lập, không phải là cơ quan hành pháp). Thể chế theo kiểu “3 trong 1” như hiện nay là không tương thích với nguyên tắc và thông lệ của hệ thống thể chế hiện đại; lẫn lộn mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, quy trình, kỹ năng và công cụ,v.v…, tạo ra mâu thuẩn, xung đột lợi ích dẫn đến triệt tiêu lẫn nhau ngay trong từng bộ phận và của cả hệ thống thể chế.

(2) Thiếu minh bạch: Các DNNN nói chung và tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước về bản chất là công ty đại chúng, nhưng yêu cầu công khai, minh bạch hóa thông tin lại có kết quả rất hạn chế.

(3) Nguyên nhân thứ ba xuất phát từ thực tế vận hành của hệ thống thể chế hiện nay; là hệ quả phái sinh tất yếu của hai nguyên nhân nói trên. Mỗi người, mỗi cơ quan nhà nước trong thực thi nhiệm vụ của mình đều dành thuận lợi, ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nhà nước bởi hàng loạt các lý do như:  có quan hệ cá nhân gắn kết, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, thông lệ bất thành văn, hay vì lợi ích của cá nhân và của những người khác có liên quan.

3. Giải pháp để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước, cơ chế điều tiết, cơ chế phân phối, quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội

Thứ nhất, cần đổi mới triệt đề tư duy, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Chúng ta cần xây dựng một nền kinh tế thị trường đầy đủ, xóa bỏ hết các yếu tố bao cấp, “xin - cho” để tạo ra thị trường cạnh tranh sôi động. Thể chế kinh tế phải tạo ra một thị trường cạnh tranh, môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, thông thoáng, minh bạch; bảo đảm một môi trường bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; tăng cường tự do, bình đẳng mà giảm thiểu ưu tiên, ưu đãi, xóa bỏ độc quyền để có môi trường kinh doanh, đầu tư tuân thủ đúng quy luật KTTT. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn phải hướng tới KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế như của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế thông qua các công cụ kinh tế,pháp luật, hành chính. Theo đó, nhà nước cần tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dựng một khuôn khổ thể chế và pháp lý hữu hiệu, đủ sức hỗ trợ sự pháttriển mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân và đẩy mạnh cạnh tranh. Bên cạnhđó, cần từng bước hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Đây cũng là một hướng quan trọng nhằm tạo dựng kết cấu hạ tầng thể chế kinh tế toàn diện, bao gồm: cải cách tổ chứcbộ máy hành chính, thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức quảnlý nhà nước. Đồng thời, phải coi kế hoạch hóa là công cụ quan trọng để nhà nước thực hiệnchức năng quản lý kinh tế. Công tác kế hoạch hóa cần đổi mới theo hướng gắn với thị trường.Đổi mới tính chất, nội dung, phương pháp lập kế hoạch để các kế hoạch trở thành công cụhữu hiệu chống lại sự “mất ổn định” vốn thường xảy ra trong kinh tế thị trường và trở thànhcông cụ bảo đảm định hướng phát triển dài hạn của đất nước.

Nhà nước cần củng cố thể chế thị trường và năng lực nhà nước trong việc thực thi trách nhiệmđiều hành có hiệu quả kinh tế thị trường. Sự phát triển các thị trường nhân tố (thị trường vốn,lao động và đất đai) là các ưu tiên cấp thiết. Cũng cần xây dựng và phát triển các cơ quan quảnlý nhà nước thực sự độc lập trong các lĩnh vực then chốt, bao gồm cạnh tranh, các ngành côngnghiệp mạng lưới, tiêu chuẩn giáo dục, tiêu chuẩn y tế và an toàn thực phẩm. Nhà nước cũngcần phát triển các đơn vị tự chủ -- có trách nhiệm giải trình với cộng đồng địa phương -- nhằmcung cấp dịch vụ công thiết yếu và cơ bản cho các cộng đồng địa phương ở các lĩnh vực khôngthể thu hút các nhà đầu tư tư nhân.

Cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm giải trình đối với các hoạt động quản lý của mình. Tất cả các cơ quantrung ương nên được yêu cầu phải nộp báo cáo tài chính và hoạt động hàng năm cho Quốchội và công chúng nhận xét, góp ý. Các báo cáo này nên cung cấp bằng chứng về việc tuân thủcác điều lệ và tiến độ hướng tới việc đạt được mục tiêu thực hiện.Các tổ chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng và quần chúng đóng vai tròquan trọng trong việc đốc thúc trách nhiệm giải trình của nhà nước. Mặc dù có một số tiến bộtrong những năm gần đây, nhưng cần nỗ lực hơn nữa để thiết lập và thực thi các hướng dẫnrõ ràng về tính minh bạch trong khu vực công, bao gồm cả việc đảm bảo công dân có cơ hộitham gia góp ý và nhận xét cho việc lập kế hoạch, lên ngân sách, thực thi, theo dõi và đánh giácác quá trình ở tất cả các cấp của chính phủ. Điều này đặc biệt quan trọng nhằm khuyến khíchsự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước trong quá trình lập kế hoạch và giám sát việc cungcấp các dịch vụ công và cơ sở hạ tầng của nhà nước.

Ba là, nhà nước cần từ từ rút lui khỏi các hoạt động kinh doanh thương mại mà có thể đượcthực hiện hiệu quả và hiệu suất bởi khu vực ngoài nhà nước.Mặc dù trong thời giangần đây, nhà nước đã giảm mạnh sự can thiệp của mình vào lĩnh vực sản xuất và phân phối hànghóa, dịch vụ song trên thực tế, sự tham gia của nhà nước vào kinh tế vẫn không chỉ dừng ở nhữnglĩnh vực mà thị trường tỏ ra kém hiệu quả. Thực tế phát triển kinh tế của Việt Nam cho thấy vẫncần có sự hiện diện của nhà nước trong nền kinh tế để phát huy mọi nguồn lực cho phát triển, đểsử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, vốn, tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, đểthực thi có hiệu quả chức năng này, nhà nước cần tìm ra những giải pháp thích hợp về kinh tế vàxã hội đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước còn kém hiệu quả; thực hiện tốt việc hoạch địnhcác chính sách kinh tế, trong đó cần xác định rõ thứ tự các hướng ưu tiên để tập trung hỗ trợ cóhiệu quả về tài chính và các nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực kinh tế.

Bốn là, nhà nước cần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo tính định hướng XHCN của việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Với nhiệm vụ xây dựng kinh tế thịtrường định hướng XHCN, bên cạnh việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, ViệtNam còn phải thực hiện mục tiêu định hướng XHCN và phát triển bền vững. Điều đó có nghĩa là, bên cạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế (tốc độ tăng trưởng, GDP/người), các chỉ tiêu khác về mặtxã hội (phát triển văn hóa xã hội, giáo dục, y tế, việc làm, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo môitrường, môi sinh...) cũng cần được chú trọng kết hợp. Mục đích của sự kết hợp này là vừa đảmbảo để các chủ thể thị trường đạt được mục tiêu lợi nhuận cao, vừa tạo ra môi trường chính trị, xã hội ổn định hài hòa, làm nền tảng cho phát triển bền vững kinh tế. Cần làm rõ nhận thức rằng thịtrường là điều kiện cần chứ không thể là điều kiện đủ cho một xã hội tự do, thịnh vượng, côngbằng và ổn định. Vì thế, nhà nước không thể chỉ hạn chế phạm vi hoạt động của mình trong việctôn trọng các quy luật và nguyên tắc của kinh tế thị trường mà còn phải có trách nhiệm xây dựng,bảo đảm thực thi có hiệu quả các chính sách cần thiết cho một xã hội phát triển công bằng, dânchủ, văn minh với một môi trường sống trong sạch, lành mạnh.

Như vậy, nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cùng một lúc phải thực hiện nhiều vai trò khác nhau. Bên cạnh vai trò xây dựng, hoàn thiện thể chế kinhtế thị trường, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, canthiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những khuyết tật của thị trường, nhà nước cònphải thực hiện cả chức năng phát triển kinh doanh và bảo đảm xã hội cho người dân. Đây lànhững nhiệm vụ không dễ dàng, đòi hỏi nỗ lực cao từ phía nhà nước, người dân và các tácnhân khác trong nền kinh tế./.

 

PGS.TS Bùi Văn Huyền

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết