Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Luận giải và đề xuất đột phá chiến lược thúc đẩy quá trình đổi mới-phát triển giai đoạn 2021-2030 (phần 1)

Ngày phát hành: 29/05/2020 Lượt xem 6024

 

I. Nhận thức về giải pháp đột phá chiến lược, đột phá chiến lược

 

1. Về thực hiện ba “Đột phá chiến lược” do Đại hội XI của Đảng xác định, Đại hội XII tiếp tục khảng địnhnhững vấn đề đặt ra

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đất nước được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định ba đột phá chiến lược : 1). Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; 2). Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; 3). Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị. Trên thực tế, ba đột phá chiến lược đó đã và đang được cụ thể hóa và triển khai thực hiện với những cấp độ khác nhau. Tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020) cho thấy, việc thực hiện ba đột phá đó đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện các đột phá chiến lược còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu; việc tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt mục tiêu đề ra; nhiều nội dung khác cũng chưa đạt được mục tiêu đặt ra, còn những bất cập, yếu kém.

Nước ta qua hơn 30 năm đổi mới, đã đạt được “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”, nhưng cũng đang cho thấy: (i) - Động lực phát triển theo chiều rộng bị suy giảm đi nhiều (có ý kiến cho là đã tới hạn hay “cạn kiệt”); (ii) - Tốc độ tăng trưởng bị suy giảm liên tục trong nhiều năm (có nguyên nhân khách quan và chủ quan), từ năm 2017 - 2018 mới khôi phục lại đà tăng trưởng, chưa kể năm 2020 bị giảm mạnh do tác động của đại dịch Covid - 19; (iii) - Chất lượng tăng trưởng còn thấp, chỉ số ICOR còn rất cao (so với các giai đoạn 1996-2006 và so với các nước trong khu vực; (iv) - Năng lực cạnh tranh quốc gia còn thấp, được cải thiện chưa nhiều; (v) - Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được khắc phục, thậm chí có những mặt trầm trọng hơn; (vi) - Lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước có lúc có mặt bị suy giảm. Trong văn kiện Đại hội XI, Đai hội XII của Đảng đã chỉ rõ một yếu kém rất cơ bản : đó là mô hình tăng trưởng và phát triển cho đến nay vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chậm chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu. Nhưng đáng lưu ý là nhận thức này lại mới chỉ nói chủ yếu về kinh tế, về mô hình tăng trưởng kinh tế, mà chưa thấy hết chiều sâu của yếu kém này “thẩm thấu, lan tỏa, cộng sinh” như thế nào trong tất cả các lĩnh vực chính trị, thể chế, pháp luật, tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, tiêu chí cán bộ, công chức, quản lý nhà nước, quản lý xã hội, văn hóa, giá trị xã hội, giá trị con người…đã tạo ra động lực phát triển của cả xã hội chủ yếu theo chiều rộng trong giai đoạn trước, hiện đang đang là sức ỳ cản trở sự phát triển hiện nay và trong giai đoạn mới. Khi động lực phát triển bị suy giảm (hay tới hạn) cần phân tích xem nguyên nhân nằm ở “nhân tố” nào, nhân tố nào đóng vai trò chủ yếu, cần phải “truy” tới cội nguồn bản chất của nó, để từ đó xác định các nhiệm vụ (khâu) mang tính đột phá để thúc đẩy đổi mới và phát triển.

Bước sang giai đoạn phát triển mới, cả bối cảnh trong nước và bối cảnh quốc tế đã và đang có nhiều thay đổi lớn, quan trọng, mang tính đột phá, trong đó có có yêu cầu đất nước phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo động lực cốt lõi để đất nước phát triển nhanh - bền vững và hội nhập quốc tế ở trình độ cao hơn. Chính vì vậy, cần phải có những nhận thức mới hơn về xác định các đột phát chiến lược.

2. Nhận thức rõ khái niệm “Đột phá chiến lược”

Trên thực tế đang có những nhận thức khác nhau về ba đột phá chiến lược: có nhận thức coi đây là “ba khâu đột phá” (nhiệm vụ manh tính đột phá); có nhận thức coi đây là “ba giải pháp đột phá để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020. Hiện đang có hai cách tiếp cận khác nhau: Nếu đặt trong tương quan cấu trúc của các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thì lại có thể coi đó là những nhiệm vụ (hay khâu) đột phá; còn nếu đặt trong tương quan với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì có thể coi đây là các giải pháp đột phá (giải pháp là để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đã được xác định). Điều đó cũng cho thấy không nên đồng nhất “Giải pháp” với “Nhiệm vụ” (hay “Khâu”) đột phá khi xem xét trong các mối tương quan khác nhau.  

Hiện nay, cụm từ “Đột phá chiến lược” được sử dụng trong các Văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước, nhưng khái niệm “đột phá chiến lược” lại chưa có sự nhận thức thống nhất. Trong phát triển kinh tế - xã hội khái niệm “Giải pháp đột phá” không còn giữ nguyên nghĩa đen của khái niệm “đột phá”. Ở đây khái niệm “Giải pháp đột phá” có thể được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, để giải quyết nhiệm vụ (vấn đề) đặt ra cần phải thực hiện nhiều giải pháp, trong đó một (hoặc một số) giải pháp then chốt nhất được xác định là giải pháp đột phá; thứ hai, đó là giải pháp (hoặc một số giải pháp) để giải quyết vấn đề được lựa chọn là vấn đề (hay nhiệm vụ) đột phá.

Khái niệm “Đột phá chiến lược”, thể hiện sự gắn kết hữu cơ giữa mục tiêu chiến lược phát triển và các “đột phá” thực hiện Chiến lược này. Tuy nhiên, hiện nay cũng đang có hai cách hiểu khác nhau: Một là, “đột phá chiến lược” được hiểu là những nhiệm vụ (những khâu) trọng yếu của một Chiến lược phát triển; hai là, “đột phá chiến lược” được hiểu là những giải pháp chủ yếu, quan trọng nhất để thực hiện Chiến lược phát triển. Trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhiều khi vẫn viết gộp nhiệm vụ và giải pháp làm một; vì vậy “đột phá chiến lược” trong không ít trường hợp được hiểu lẫn cả nhiệm vụ và giải pháp.

Trong Văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng, xét về nội dung, cách tiếp cận “Đột phá chiến lược” nghiêng về là nhiệm vụ (hay “khâu”) đột phá vì đặt trong tương quan với cấu trúc hệ thống các nhiệm vụ đặt ra nhằm thực hiện mục tiêu phát triển đất nước trong giai đoạn đó. Đột phá chiến lược được hiểu là những “khâu”, những nhiệm vụ chủ yếu có tính chất chi phối toàn cục, bao trùm trong quá trình thực hiện Chiến lược, được quy định bởi mục tiêu phát triển chủ yếu trong thời kỳ chiến lược xác định. Các nhiệm vụ (hay khâu) đột phá phải đóng vai trò chủ đạo, mở đường, liên kết, tạo động lực thực hiện thành công Chiến lược phát triển.

Chuyển sang phát triển theo chiều sâu dựa trên chủ yếu nhân tố con người với nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn liền với phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ cao, đổi mới - sáng tạo, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc, quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa được tiếp tục đẩy mạnh, cùng với những trở lực từ chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy…Đặt ra yêu cầu phải đổi mới đồng bộ về tư duy, định hướng chiến lược, thể chế phát triển và hệ thống cơ chế, chính sách thực thi. Việc xác định các đột phá chiến lược trong gia đoạn mới phải đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu này. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nên thống nhất khái niệm “Đột phá chiến lược” là những nhiệm vụ (khâu) đóng vai trò cốt yếu nhất của Chiến lược, nếu thực hiện thành công các nhiệm vụ này thì sẽ là nền tảng thực hiện được các mục tiêu Chiến lược đặt ra. Trên cơ sở phương pháp tiếp cận đó, đưa ra luận chứng để xác định các nhiệm vụ (khâu) mang tính đột phá với những nội dung chủ yếu của nó - được gọi là “Đột phá chiến lược” trong gia đoạn 2021 - 2030.

 

 

3. Cách tiếp cận lựa chọn đột phá chiến lược

1) Trong quá trình xây dựng Chiến lược phát triển của một quốc gia (hay của một ngành, lĩnh vực) cho một giai đoạn nào đó, việc xác định các nhiệm vụ (hay khâu) đột phá được đặt ra sau khi đã xác định rõ các mục tiêu và nhiệm vụ (nội dung chủ yếu) của Chiến lược. Để xác định được đúng các nhiệm vụ (hay khâu) đột phá cần từ mục tiêu và nhiệm vụ của Chiến lược phát triển làm rõ “Cấu trúc hệ thống các nhiệm vụ” theo mức độ tầm quan trọng, mức độ chi phối - tác động lan tỏa, mức độ huy động - liên kết - sử dụng - phát huy có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện Chiến lược. Các nhiệm vụ đột phá (hay khâu đột phá) được lựa chọn phải đứng hàng đầu trong cấu trúc hệ thống các nhiệm vụ đó. Các nhiệm vụ (hay khâu) đột phá được lựa chọn cũng có những cấp độ khác nhau: có thể là ở cấp độ đối với toàn bộ Chiến lược phát triển, cũng có thể là cho cấp độ từng lĩnh vực cụ thể. Nhưng các nhiệm vụ (khâu) đột phá ở các cấp độ đó cần được kết nối với nhau một cách hữu cơ nhằm tạo động lực “cộng hưởng” trong toàn bộ Chiến lược phát triển.

2) Trong thực tế, khi giải quyết các vấn đề (hay nhiệm vụ) đặt ra thường có hai cấp độ: Cấp độ thứ nhất, là các nhiệm vụ khắc phục (giải quyết) hiện trạng (bề mặt) của vấn đề bất cập, yếu kém; các nhiệm vụ, giải pháp này thường có thể đưa lại kết quả nhanh, “trực giác hơn”, nhưng nó không giải quyết được căn bản gốc rễ của vấn đề, thường “che lấp đi” các nguyên nhân chủ yếu, dễ làm cho người ta “lạc hướng, ngộ nhận” về xu hướng phát triển. Chỉ riêng các giải pháp ở cấp độ này cũng không tạo được động lực phát triển mạnh và bền vững, vì thực chất đó chỉ là những giải pháp “đối phó” nhất thời. Cấp độ thứ hai, là các nhiệm vụ nhằm khắc phục (giải quyết) nguyên nhân bản chất cốt lõi của những bất cập, yếu kém; đồng thời đề ra được những nhiệm vụ, giải pháp đáp ứng với yêu cầu mới của sự phát triển. Đây chính là những nhiệm vụ, giải pháp cần phải có trong những giai đoạn phát triển có tính “bước ngoặt”, vì bản chất của sự phát triển đã thay đổi, cần phải có những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, nhất là những đột phá chiến lược.

3) Từ kinh nghiệm quốc tế có thể rút ra khái quát cách tiếp cận trong việc xây dựng và lựa chọn hệ thống các nhiệm vụ (giải pháp) phát triển, nhất là các nhiệm vụ (giải pháp) mang tính đột phá, như sau :

- Xác định đúng bối cảnh, yêu cầu phát triển; nhận diện đúng vấn đề phát triển (bản chất và hình thức thể hiện), để từ đó xác định đúng mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện, nhất là đối với các nhiệm vụ, giải pháp có tính đột phá.

- Xác định những nhiệm vụ, giải pháp dài hạn. Tập trung vào các giải pháp hướng tới mục tiêu trung và dài hạn, không phải chỉ hướng vào các vấn đề hiện tại. Các nhiệm vụ, giải pháp ngắn hạn cũng phải được định hướng theo, tạo cơ sở để thực hiện các mục tiêu trung và dài hạn (không làm chệch hướng, tổn hại đến mục tiêu dài hạn).

- Thúc đẩy tư duy sáng tạo và những đổi mới chính yếu, mang tính đột phá trong quá trình xác định và xây dựng các nhiệm vụ, giải pháp phát triển. Sử dụng cách tiếp cận toàn diện, hệ thống trong việc xây dựng các nhiệm vụ, giải pháp.

- Đưa ra được những giải pháp phù hợp, mang lại kết quả lớn hơn về chất lượng, lợi ích, hiệu quả. Lựa chọn các giải pháp đòi hỏi ít thời gian và chi phí cơ hội hơn. Tháo dỡ những rào cản, “nút thắt”; xây dựng các phương án điều chỉnh, phòng ngừa, xử lý các vấn đề mới phát sinh, ứng phó với những thay đổi bất thường.

- Tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là các nhiệm vụ, giải pháp đột phá.

Đối với bất kỳ một quốc gia nào (hay một lĩnh vực cụ thể nào), trên bình diện bao quát nhất, điểm quy tụ đế xem xét chiến lược phát triển chính là tạo “động lực phát triển”, trong đó có vai trò của các đột phá chiến lược. Động lực đó được tạo bởi sự thống nhất biện chứng - hữu cơ giữa các nhân tố : i) - Lý luận phát triển (được xây dựng trên cơ sở tư duy khoa học - thực tiễn phù hợp với điều kiện - trình độ cụ thể của đất nước và bối cảnh quốc tế - xu thế của thời đại); ii) - Mục tiêu phát triển phù hợp; iii) - Thể chế phát triển tổng hợp phù hợp (cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường); iv) - Các chủ thể và các nguồn lực phát triển; v) - Các cơ chế - chính sách vận hành; vi) - Tổ chức thực hiện.

II. Lựa chon đột phá chiến lược trong giai đoạn 2021-2030

1. Đề xuất lựa chọn các “Đột phát chiến lược”

Theo cách tiếp cận trên, để đáp ứng với bản chất phát triển có tính bước ngoặt của giai đoạn mới, đề xuất bốn đột phá chiến lược cho gia đoạn mới, như sau:

i). Đột phá về đổi mới tư duy phát triển, nhằm định ra định hướng chiến lược phát triển đáp ứng với đòi hỏi phát triển có tính bước ngoặt bứt phá của đất nước trong giai đoạn mới.

ii). Đột phá về xây dựng và hoàn thiện Thể chế phát triển tổng thể theo chiều sâu, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới.

iii). Đột phá về đổi mới - sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhất là công nghệ cao.

iv). Đột phá về phát triển con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - chủ thể và mục tiêu của quá trình đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Đột phá chiến lược “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị” được Đại hội XI xác định vẫn là một đột phá rất quan trọng, song xét về phạm vi chi phối tổng thể vẫn đứng sau và phụ thuộc vào bốn đột phá trên. Đồng thời, nội dung đột phá này cần phải được bao quát rộng hơn, đồng bộ hơn, bao gồm cả phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội, thông tin, truyền thông...

 

 

2. Nội dung các đột phá chiến lược

1) Đột phá về đổi mới tư duy phát triển - Xây dựng tư duy phát triển mang tính đột phá  

Câu hỏi bao trùm đặt ra là : Liệu có thể tạo được động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước - phát triển theo chiều sâu trong giai đoạn mới, với những thay đổi rộng lớn và sâu sắc của bối cảnh quốc tế và trong nước, bằng những giải pháp về cơ bản vẫn trong khuôn khổ của nhận thức lý luận chủ yếu phát triển theo chiều rộng, được không ? Đất nước vẫn sẽ tiếp tục phát triển theo những nhiệm vụ, giải pháp định hướng chiến lược trên cơ sở lý luận đã được định hình cơ bản như trong hơn 30 năm đổi mới, hay đang đứng trước “một bước ngặt phát triển mới về chất” cần có những cơ sở lý luận phát triển mới ? Thực tiễn của các nước phát triển, các nước công nghiệp mới (NIC), của các nước cải cách - đổi mới thành công, của các nước thuộc nhóm các nền kinh tế lớn mới nổi (BRICS), đều cho thấy, không có nước nào phát triển nhanh và hội nhập quốc tế thành công bằng “gương mặt của người khác”, bằng tư duy lý luận “vay mượn” giáo điều trên thế giới, mà khộng dựa vào các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu sáng tạo tinh hoa trí tuệ của nhân loại để xây dựng cho mình một nền tảng tư duy phát triển phù hợp và luôn được đổi mới, nhất là trong những giai đoạn phát triển có tính bước ngoặt. 

Hiện nay, bối cảnh trong nước sau hơn 30 năm Đổi mới đã có nhiều thay đổi; còn bối cảnh quốc tế đã không còn như khi tồn tại “hai phe, bốn mâu thuẫn”, cũng không còn cơ bản như trong hơn 30 năm đã qua; vấn đề ý thức hệ (nhất là ý thức hệ về phe XHCN, về sự phát triển theo mô hình CHXN như trước đây) tạm thời đã không còn là một dòng chi phối chủ đạo trong quan hệ giữa các nước trên thế giới. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã trở thành động lực chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế; quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa, tùy thuộc lẫn nhau, hợp tác với nhau song hành với cạnh tranh - đấu tranh với nhau, hình thành các liên kết mới, các khối mới, các cực tăng trưởng - ảnh hưởng mới …trong tương quan - quan hệ rất phức tạp giữa các nước (cả về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, xã hội…), nhất là giữa các nước lớn và các nước mới trỗi dậy. Chiến lược “xoay trục” của Mỹ; chiến lược hướng Đông của Nga; Trung Quốc thay đổi từ chiến lược “dấu mình chờ thời” sang chiến lược “trỗi dậy hòa bình” đến “giấc mơ Trung hoa”, từ “đứng dậy” đến “giàu lên” và nay là “mạnh lên”, với tham vọng đóng vai trò chủ đạo ngày càng tăng trong việc tạo lập các trật tự thế giới và quốc tế hóa theo kiểu “vành đai - con dường” của Trung Quốc, thể hiện qua cách đối sử với các nước lớn, các nước trong khu vực và các nước chậm phát triển trên các châu lục. Đồng thời đang có sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ, chống lại quá trình toàn cầu hoá, đòi cải tổ lại WTO và trật tự thương mại thế giới như kiểu của Mỹ; rồi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang có những tác động toàn cầu. Ngay trong cộng đồng ASEAN cũng đang đứng trước những thách thức mới trong sự phát triển (như mức độ đồng thuận trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN dưới tác động và ảnh hưởng của các nước lớn; trong giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc…). Đại dịch cúm Covid - 19 đang lan tỏa với tốc độ siêu tốc tới khoảng 216 quốc gia và vùng lãnh thổ; gây ra chết chóc và “tàn phá” biết bao nhiêu thành quả của nhân loại trong chốc lát. Tác động của nó, nhất là sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu, đang làm bộ lộ những yếu kém, bất cập về nhận thức và cấu trúc thể chế phát triển kém bền vững của các quốc gia và các thể chế, thiết chế toàn cầu, khu vực; cho thấy rõ hơn mối quan hệ của các giá trị con người - giá trị công dân, giá trị cộng đồng, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc, giá trị chung của nhân loại và trách nhiệm xã hội; có những giá trị chung của nhân loại đã vượt qua sự khác biệt về chính thể chính trị - xã hội, về ý thức hệ, về tôn giáo; cho thấy rõ hơn sự “tùy thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia (dù là trình độ cao hay trình độ thấp) trong sự phát triển; cho thấy rõ hơn mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội - con người - tự nhiên; đặt ra những vấn đề rất mới trong quan hệ quốc tế và khu vực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường... Điều đó đặt ra yêu cầu phải có những nhận thức mới trong tư duy phát triển, nhận thức rõ hơn bản chất của những cơ hội cùng các thách thức, khó khăn, bất cập trong nhận thức và các giải pháp ứng phó đối với tình hình thế giới và khu vực hiện nay về phát triển bền vững.

Trong bối cảnh chung đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại trên thế giới đang tiếp tục tăng tốc mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với các nội dung rất mới như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, robot mang một số những tính năng của con người…Sự phát triển mới về bản chất và quy mô của lực lượng sản xuất hiện đại thế giới làm sâu sắc hơn quá trình toàn cầu hóa, hình thành “nền kinh tế ảo” xuyên biên giới tách rời tương đối với nền kinh tế thực; hình thành các hình thức kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, ứng dụng Blockchain; sự chuyển dịch của các dòng vốn, hàng hóa, công nghệ, lao động, các làn sóng di dời các cơ sở sản xuất và chuỗi cung ứng giữa các nước. Các thay đổi quan trọng đó thúc đẩy quá trình xã hội hóa, quốc tế hóa lực lượng sản xuất, quốc tế hóa quan hệ sản xuất (trong đó có các quan hệ sở hữu) không chỉ trong từng nước mà trên bình diện toàn cầu. Đó là cơ sở hình thành những mô hình, những “kiểu quan hệ sản xuất mới” không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ “biên giới cứng” của một quốc gia, và đã trở thành các kiểu quan hệ sản xuất quốc tế vượt qua khỏi biên giới cứng của từng nước, mà Nhà nước trong từng nước, kể các các nước phát triến nhất (với thể chế xác định riêng) không thể một mình “điều tiết” có hiệu quả các quan hệ sản xuất quốc tế này, đòi hỏi phải hình thành các chế định, các thể chế quốc tế để điều tiết trên cơ sở hình thành và bảo vệ các giá trị chung giữa các nước, trong khi vẫn tôn trọng các giá trị riêng của từng nước ở mức độ chấp nhận được. Việc thích ứng có hiệu quả với các quá trình này, đòi hỏi phải đổi mới tư duy đạt tới tầm toàn cầu, đây là thách thức rất lớn đối với các nước còn ở trình độ phát triển thấp khi tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó có Việt Nam.

 Kể từ khi tham gia vào WTO năm 2007, cho đến nay, Việt Nam đã ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước và định chế khu vực, trong đó có những FTA thế hệ mới (như Hiệp đinh CPTPP, Hiệp định Việt Nam - Liên minh Châu Âu EVFTA) với những chuẩn mực và tiêu chuẩn rất cao cả về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp nhà nước, quan hệ lao động, xã hội...Điều đó đòi hỏi phải “định vị” rõ hơn vị thế của Việt Nam trong sự vận động các mối quan hệ của Việt Nam với các nước lớn và giữa các nước lớn, quan hệ của Việt nam với các nước ASEAN và các nước trong khu vực, các nước bạn truyền thống và các nước mới nổi khác. Đòi hỏi phải có những nhận thức và tư duy mới về thế giới hiện nay và con đường Việt Nam phát triển - hội nhập với thể giới. Trên cơ sở nhất quán đường lối phát triển và ngoại giao độc lập - tự chủ, “Việt Nam làm bạn với tất cả các nước” trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và cùng có lợi, “không liên minh quân sự với nước khác, không cho nước khác đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, không liên kết với nước khác để chống nước thứ ba”, nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam không cần có những người bạn thân - bạn chí cốt với quan hệ bình đẳng - cùng có lợi, tôn trọng nhau trên cơ sở “lòng tin chiến lược”, sẵn sàng có thể hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, đó là một đạo lý rất bình thường ở trên đời và trong quan hệ quốc tế. Tư duy hội nhập quốc tế không còn chỉ là sự lựa chọn đơn thuần “cái gì có lợi thì tham gia, cái gì không có lợi thì không tham gia”, mà là sự tùy thuộc lẫn nhau, cùng chia sẻ về lợi ích, trách nhiệm, vừa hợp tác vừa đấu tranh, thậm chí có cả sự đánh đổi.

Xem xét khái quát tổng thể bối cảnh trong nước và quốc tế có thể nhận thấy rằng hiện nay nước ta đang ở một thời điểm có tính bước ngoặt trong sự phát triển, phải bứt phá vượt lên, nếu không sẽ bị tụt hậu xa hơn. Để tạo được động lực phát triển mạnh và bền vững đòi hỏi phải có sự thay đổi về chất trong thể chế phát triển đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực. Điều này đặt ra phải có sự đổi mới tư duy mang tính đột phá để nhận thức cho đúng thực trạng và bối cảnh phát triển, trên cơ sở đó định ra được đường lối, định hướng chiến lược, sách lược phù hợp và hiệu quả. Bởi vì nhiều nhận thức, cách tiếp cận từ trước cho đến nay đã không còn đáp ứng yêu cầu phát triển, không thể “tịnh tiến” một cách cơ học các nhận thức này lên làm cơ sở lý luận cho giai đoạn phát triển mới. Để có nhận thức mới - phù hợp làm cơ sở lý luận cho giai đoạn phát triển mới, con đường duy nhất là phải có bước đột phá về đổi mới tư duy. Vì vậy đổi mới tư duy mang tính đột phá (hay gọi là Tư duy đột phá) có thể được coi là khâu đột phá hàng đầu, có tính mở đường cho quá trình đổi mới mang tính bước ngoặt trong giai đoạn mới. 

Nhìn lại lịch sử, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được Đại hội VI của Đảng đề ra năm 1986 cũng là hệ quả trực tiếp của đổi mới tư duy mang tính đột phá, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng đất nước, bối cảnh quốc tế, xu thế phát triển khách quan của đất nước trong thời điểm bước ngoặt đó. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử, trình độ phát triển, tư duy đổi mới mang tính đột phá trong gần 30 năm qua với trọng tâm chủ yếu là đổi mới về kinh tế, thể chế kinh tế với nội dung chủ yếu là: chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường; chuyển từ chế độ sở hữu với cấu trúc sở hữu quốc doanh và tập thể chiếm tỷ trọng tuyệt đối sang nền kinh tế đa sở hữu với nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển. Nhưng sự tăng trưởng và phát triển trong hơn 30 năm qua lại chủ yếu nằm trong dòng tư duy và mô hình phát triển theo chiều rộng. Tư duy và mô hình phát triển đó đã phát huy tác dụng chủ đạo trong gần 30 năm qua, nay đã bộc lộ những “mặt trái” cơ bản của nó và không thể là cơ sở nền móng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Tư duy đột phá trong giai đoạn phát triển mới sẽ phải bao hàm những nội dung gì ? Xin nêu lên khái quát một số nội dung chủ yếu sau :

i) Đổi mới tư duy về cách tiếp cận và tiêu chí đánh giá thực trạng trình độ phát triển của Việt Nam theo tinh thần khách quan, khoa học, “nhìn thẳng vào sự thật” (cả về những kết quả, thành tựu, những yếu kém bất cập, nhuyên nhân, những vấn đề mới đặt ra). Nhìn rõ Việt Nam đang ở vị thế như thế nào trong tương quan phát triển với các nước khu vực và thế giới (?).

ii) Đổi mới tư duy về nhìn nhận Thế giới hiện nay, xu thế phát triển, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự đấu tranh và tùy thuộc lẫn nhau rất phức tạp và đa diện - đa tầng trong quan hệ quốc tế cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học - công nghệ…; mối quan hệ giữa các tính phổ quát của của các giá trị chung của nhân loại và các giá trị đặc trưng dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển theo định hướng XHCN; “định vị” Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực… Trên cơ sở của tư duy đổi mới mang tính đột phá đó để xây dựng Chiến lược phát triển đất nước và thể chế quan hệ - hội nhập quốc tế phù hợp nhằm kết hợp có hiệu quả nhất “sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại”, không để rơi vào tình thế bị động chiến lược, lệ thuộc hay “đơn thương độc mã, một mình một chợ, không bạn thân” trong điều kiện quốc tế mới…Như vậy, phải từ tư duy tầm toàn cầu, tầm nhân loại về sự phát triển để “định vị” Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực, trên cơ sở đó mà xác định định hướng chiến lược, mục tiêu và thể chế phát triển đất nước, chứ không phải là chỉ lấy những giá trị riêng biệt của Việt Nam làm cơ sở tư duy về định hướng chiến lược phát triển và thể chế phát triển. Ví dụ, nếu tư duy rằng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chứa đựng những giá trị bản chất về cơ bản khác biệt với thể chế kinh tế thị trường hiện đại của thế giới thì không thể bao giờ hội nhập quốc tế có hiệu quả được. Cần nhận thức rõ rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể nằm ngoài “dòng chảy” của nhân loại. Nhưng không phải là bị động xuôi theo dòng chảy của nhân loại, mà phải chủ động kiến tạo những giá trị đặc trưng của Việt Nam có thể kết nối với những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại trong quá trình phát triển.

iii) Đổi mới tư duy về thể chế phát triển đất nước: Yêu cầu khách quan của việc đảm bảo sự đồng bộ trong thể chế phát triển giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế và xã hội; giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền với xây dựng xã hội công dân - tự chủ, tự quản của cộng đồng dân cư, phát triển nền dân chủ và phát triển kinh tế thị trường trong quá trình phát triển định hướng XHCN. Bối cảnh quốc tế cũng như yêu cầu phát triển nhanh - bền vững của đất nước trong giai đoạn mới, đòi hỏi phải đổi mới tư duy về “sự đồng bộ” trong mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế và đổi mới xã hội trong giai đoạn mới. Khác với những giai đoạn trước, đổi mới kinh tế đi trước, hiện nay do yêu cầu khách quan, đổi mới thể chế chính trị về một số phương diện đòi hỏi phải có “tính vượt trước”, tính định hướng dẫn đường, thể hiện ở nắm bắt xu thể phát triển mọi mặt của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển (chính trị - kinh tế - xã hội) có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững, không bị tụt hậu. Như vậy cả về phương diện tư duy cũng như thực tiễn xây dựng thể chế, sự đồng bộ - phù hợp trong thể chế phát triển cần hướng tới mối quan hệ biện chứng như sau : Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước” - Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm - Thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội.

iv) - Xây dựng tư duy phát triển theo chiều sâu đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…để làm cơ sở xây dựng và hoàn thiện mô hình - thể chế phát triển đất nước theo chiều sâu, bền vững (không chỉ về kinh tế mà đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực). Tư duy này khác về bản chất so với tư duy phát triển theo chiều rộng. Tuy nhiên, về phương diện tư duy cũng như thực tiễn phát triển cần thấy rõ Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình quá độ - chuyển hóa: từ nền sản hàng hóa xuất nhỏ, manh mún (thậm chí có những nơi còn mang tính tự cung, tự cấp) sang nền sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại; từ thể chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường; từ thể chế kinh tế thị trường còn ở trình độ thấp sang thể chế kinh tế thị trường trình độ cao hơn (từng bước hiện đại); từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa, hội nhập (độ mở cửa rất rộng, nhưng trình độ và chất lượng hội nhập còn thấp). Các quá trình này là khách quan, nó tạo ra sự khác biệt về trình độ phát triển khá lớn giữa các vùng, miền, lĩnh vực. Do đó, sự đổi mới tư duy phát triển phải bám chắc tính hiện thực, không thể duy ý chí, không thể dựa vào tư duy lý luận xa rời thực tiễn, không thể áp dụng máy móc các kinh nghiệm quốc tế, xây dựng các thể chế “rất khoa học, rất hiện đại, rất đồng bộ” nhưng không hiện thực (ví dụ như đòi hỏi xây dựng thể chế thị trường đất đai hiện đại tại các tỉnh miền núi phía bắc hiện nay…). Mặt khác, lại phải đẩy nhanh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường tiên tiến, hiện đại đối với những lĩnh vực, sản phẩm hàng hóa đã và đang hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. 

Đổi mới tư duy về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phải được đặt trên nền tảng của nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân, lợi ích của cộng đồng, lợi ích quốc gia - dân tộc; gắn hữu cơ giữa thượng tôn pháp luật - dân chủ - và trách nhiệm xã hội. Đặc biệt, cần chuyển mạnh từ quan niệm phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội chủ yếu theo các tiêu chí “vật chất”, hành chính…sang các tiêu chí phát triển giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc; thể hiện cuộc sống hạnh phúc, hài hòa, nhân bản, cố kết và chia sẽ cộng đồng. Vấn đề phát triển bền vững về môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống, không còn chỉ được nhìn nhận về giá độ kinh tế, giác độ bảo vệ môi trường, giác độ khoa học - công nghệ, giác độ an ninh xã hội, mà còn phải được nhìn nhận dưới giác độ giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc và giá trị nhân loại.  

v) Những nội dung đổi mới tư duy nêu trên đòi hỏi và đặt ra yêu cầu khách quan đổi mới tư duy về vị trí, vai trò, nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo và trách nhiệm xã hội (trách nhiệm đổi với nhân dân, đối với dân tộc và đất nước) của Đảng duy nhất cầm quyền và của Nhà nước, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.

Đổi mới tư duy mang tính đột phá như trên không có nghĩa là không kế thừa những nhân tố hợp lý của tư duy hiện tồn, những bước trung gian - quá độ do thực tiễn quy định, nhưng nhất thiết phải nhất quán với những nội dung và bản chất mới phù hợp với đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, đổi mới tư duy (kể cả tư duy đột phá) chưa thể là “công cụ” trực tiếp tác động làm thay đổi thực tiễn, vì đó mới chỉ là ở tầng nhận thức, nhưng đây là “khâu đột phá” có tầm quan trọng mang tính mở đường cho sự phát triển, nhất là trong những giai đoạn phát triển có tính bước ngoặt của lịch sử. Về vai trò của đột phá đổi mới tư duy lý luận, trong phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại lễ công bố quyết định thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2011-2015 cũng đã nêu : Đột phá về lý luận sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển thực tiễn”; rằng “chúng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy... Những diễn biến chính trị trên thế giới thời gian qua có rất nhiều vấn đề vượt ra ngoài dự báo thông thường. Nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới thì không theo kịp sự phát triển của tình hình. Vấn đề là chúng ta dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế”[1]. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của đột phá đổi mới tư duy đối với sự phát triển. Nếu không kịp thời đổi mới tư duy theo kịp với những thay đổi nhanh và đột biến của thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, chúng ta sẽ bỏ lỡ “cơ hội vàng” để đưa đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới.

(còn tiếp)

                                          PGS.TS Trần Quốc Toản

                                             Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 



[1] Phát biểu của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tai Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, tại Hà Nội, sáng 13/8/2018

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết