Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Ngọn nguồn sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân

Ngày phát hành: 19/01/2020 Lượt xem 3343

 

 2020 là dấu mốc kỷ niệm Đảng ta tròn 90 năm. Một trong những bài học sâu sắc, xuyên suốt từ thực tiễn phong phú của cách mạng 90 năm qua luôn chỉ ra rằng, ngọn nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của đất nước ta qua các thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay chính là ở chỗ, Đảng biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc, gắn bó mật thiết với nhân dân, chăm lo đáp ứng các lợi ích thiết thân của nhân dân, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện mình để ngày càng phát huy tốt hơn tiềm năng to lớn của nhân dân.

 

 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đã chỉ rõ: “Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng"[1]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cần phải “tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân”[2]. "... Quan hệ giữa Đảng với quần chúng bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và cách mạng nước ta"[3].

Đây là bài học có ý nghĩa thực tiễn cực kỳ quan trọng và ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc vừa là sự khái quát cao độ và sự khẳng định đầy đủ về ngọn nguồn sức mạnh của Đảng trong toàn bộ quá trình lịch sử 90 năm qua, vừa là vấn đề căn bản mà công tác xây dựng Đảng hiện nay cần chú trọng giải quyết hơn nữa trong tương lai. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta đã phát huy được những kinh nghiệm thành công về giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân; khắc phục những yếu kém chủ quan, nóng vội, giáo điều… xa dân trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp; nhất là khi bước vào công cuộc đổi mới, tăng cường gắn bó với nhân dân, lắng nghe, tiếp thu sáng kiến của nhân dân, động viên sức mạnh tổng hợp của nhân dân, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi cơ bản diện mạo đất nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Những kết quả ấy khẳng định năng lực mới của Đảng ta trong các hoạt động tăng cường gắn bó, khơi dậy và phát huy tiềm năng, sức sáng tạo to lớn của nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Các chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ngày càng phù hợp với tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Các cấp uỷ đảng đã tăng cường công tác vận động quần chúng, kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của ban dân vận các cấp. Quan hệ phối hợp công tác vận động quần chúng của hệ thống chính trị có bước tiến bộ.

Tuy nhiên, hiện nay, Đảng phải đối mặt với rất nhiều vấn đề mới đặt ra, nổi lên là mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thể hiện ở những khía cạnh sau:

- Xu hướng xa rời thực tiễn và xa rời quần chúng của tổ chức đảng và đảng viên ngày càng bộc lộ rõ so với trước đây, dẫn đến mối quan hệ giữa Đảng với dân và lòng tin của dân đối với Đảng có dấu hiệu ngày càng suy giảm. Cá biệt ở một số địa phương, quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền với nhân dân còn mâu thuẫn, căng thẳng, lòng tin của nhân dân vào tổ chức đảng và đảng viên giảm sút nghiêm trọng. Thậm chí, có địa phương còn để xuất hiện tình trạng xung đột căng thẳng giữa tổ chức đảng, chính quyền với một bộ phận quần chúng nhân dân, ảnh hưởng tới ổn định xã hội, làm giảm sút hình tượng tốt đẹp của Đảng trong lòng dân. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận đảng viên, cán bộ, công chức nhà nước chưa được khắc phục triệt để, kỷ cương phép nước bị xem thường, thậm chí còn có những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng với dân.

- Một số chính sách của Đảng và Nhà nước chưa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chưa thật sự bảo đảm lợi ích của nhân dân. Nhiều bức xúc của nhân dân không được giải quyết kịp thời, thoả đáng (nhất là lĩnh vực khiếu kiện đất đai, đầu tư, thủ tục hành chính, v.v.).

- Phương thức tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở các cấp có xu hướng quan liêu, hành chính hoá, chậm đổi mới; nhiều cán bộ đoàn thể bị "công chức hoá" không gần gũi với quần chúng nhân dân. Vai trò, trách nhiệm tham mưu, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của một số Ban dân vận cấp ủy chưa cao, có nơi còn chung chung. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể chưa thực sự chặt chẽ.

- Tính chiến đấu, tính tiền phong, gương mẫu của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng và đảng viên giảm sút rõ rệt. Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ chưa được cụ thể hoá đầy đủ và đồng bộ thành một hệ thống thể chế vận hành thích hợp bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Sở dĩ có tình trạng này là vì trong quá trình lãnh đạo cách mạng, một bộ phận cán bộ không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, sa đọa về lối sống, đã quên mất vị trí, vai trò làm "công bộc" của nhân dân, sai lầm đổi ngôi chủ - tớ, tự cho mình cái quyền "chăn dắt thần dân", sống trên nhân dân, đè đầu cưỡi cổ nhân dân, thậm chí đối lập với nhân dân… Bởi vậy, lúc này hơn lúc nào hết, giữ gìn mối quan hệ mật thiết với nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta và cách mạng nước ta, là sự bảo đảm cơ bản cho Đảng chiến thắng mọi khó khăn, vượt qua mọi nguy cơ, đi tới thắng lợi.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cấu trúc giai tầng xã hội Việt Nam đã và đang tiếp tục phát sinh những biến đổi, cấu thành nên các giai tầng mới trong xã hội khá phức tạp, khuynh hướng chính trị cũng không hoàn toàn tương đồng, điều đó về mặt khách quan làm cho nhiệm vụ củng cố và phát triển mối liên hệ giữa Đảng với dân ngày càng trở nên quan trọng, cấp bách.

Trong tình hình mới, nhằm tăng cường sức mạnh của Đảng, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, tăng cường lãnh đạo xây dựng Nhà nước ngày càng trở thành là “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, cần nỗ lực tập trung giải quyết một số vấn đề trước mắt chủ yếu sau:

Một là, thực hành dân chủ, đề cao và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Dân là chủ, dân làm chủ, tạo điều kiện thuận lợi giúp nhân dân phát huy quyền làm chủ là con đường cơ bản để Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân. Từng bước xây dựng và tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả các cấp, các địa bàn, các lĩnh vực. Trước hết, Đảng chỉ đạo Nhà nước và các cơ quan chức năng xây dựng các thiết chế, thể chế bảo đảm để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; từng bước thực hiện quyền tổ chức, quản lý đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện các cơ chế mở rộng, phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh đúng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân, phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc. Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng, Nhà nước, nhất là việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển quan trọng; giám sát hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, của cán bộ, đảng viên; định kỳ lấy ý kiến phê bình, góp ý của nhân dân…

 

 

Đảng chú trọng lãnh đạo thực hiện Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò làm chủ của quần chúng nhân dân trong các công việc hằng ngày ở ngay địa bàn trực tiếp nhất. Thực hiện tốt phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát, dân thụ hưởng".

Tạo điều kiện thuận lợi giúp nhân dân thực hiện hiệu quả quyền làm chủ, Đảng chỉ đạo xây dựng chế độ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trước nhân dân; cơ chế cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cơ quan dân cử tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tiếp thu, giải quyết yêu cầu, công việc của nhân dân. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.

Hai là, đặc biệt coi trọng giải quyết vấn đề giảm khoảng cách giàu nghèo, vấn đề việc làm và nạn thất nghiệp trong xã hội.

Khắc phục khoảng cách giàu nghèo có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc kích thích sức sống xã hội, thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ trật tự trị an và đoàn kết xã hội. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng thực hiện chính sách để cho người dân được làm giàu bằng chính lao động sáng tạo của mình đã tác động rõ rệt đến tính tích cực trong mỗi con người, phá vỡ sự trói buộc của chủ nghĩa bình quân, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đem đến những thay đổi sâu sắc trong tư tưởng, quan niệm của mọi người cũng như diện mạo toàn xã hội, làm cho chất lượng đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện và nâng cao một cách phổ biến.

Tuy nhiên, trong hơn 30 năm đổi mới, tình hình phân phối thu nhập của các giai tầng xã hội khác nhau đã hình thành một khoảng cách rõ rệt, trong đó bao gồm khoảng cách thu nhập giữa thành thị với nông thôn, giữa các địa phương, giữa các ngành, nghề, giữa các cá nhân với nhau. Vài năm trở lại đây, khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng lưu ý công tác: "... giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu – nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu – nghèo..."[4]. Trên thực tế, khoảng cách giàu nghèo không chỉ là vấn đề lợi ích thiết thân mà còn là vấn đề chính trị. Nếu không giải quyết được vấn đề này, nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phải sử dụng các biện pháp điều tiết phân phối thu nhập xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội một cách hiệu quả thông qua công cụ thuế và các công cụ khác. Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức xoá đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xoá đói, giảm nghèo bền vững.

Việc làm là cái gốc của cuộc sống dân sinh, không có việc làm đồng nghĩa với việc không có thu nhập, tức không có gì bảo đảm cho cuộc sống. Cùng với những điều chỉnh chiến lược kinh tế - xã hội từ khi đổi mới hội nhập đến nay, số lượng công nhân, viên chức dôi dư trong các doanh nghiệp bị giải thể, cùng với lượng người thất nghiệp, lượng người mất việc làm ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động... Ngoài ra, còn một bộ phận lớn nông dân trong lúc nông nhàn cũng có nhu cầu tìm việc làm. Có thể thấy mâu thuẫn cung cầu lao động hiện nay đang ngày càng gay gắt, muốn giải quyết được nó cần phải có một quá trình khá dài. Giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động đang đặt ra ngày càng bức xúc trước mắt Đảng và Nhà nước. Kiên quyết khắc phục kịp thời những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; gắn cải cách tiền lương với sắp xếp, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị; gắn tiền lương của người lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đang là vấn đề bức xúc.

Vì vậy, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: "Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động...Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng”[5].

      Ba là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết chặn đứng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phòng chống các tệ nạn quan liêu, tham nhũng trong Đảng.

Để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong thời gian tới, bên cạnh việc quán triệt, thực hiện những nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, có nhiều việc phải làm, trong đó có hai điểm cần nhấn mạnh:

(1). Đảng phải giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và chống quan liêu, tham nhũng; Mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhiều năm qua đã đạt được nhiều thành tựu rõ rệt, nhưng về mặt tổng thể tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong nội bộ Đảng còn rất nghiêm trọng. Hiệu quả đấu tranh phòng và chống các tệ nạn tiêu cực đó còn tồn tại một khoảng cách không nhỏ so với yêu cầu quần chúng nhân dân đặt ra cho Đảng. Tình hình đó, nếu "chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Để chiến thắng những căn bệnh này, có nhiều việc phải làm, nhưng trước hết là phải tự suy nghĩ, tự phê bình và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bất kỳ tình huống nào, Đảng cũng luôn luôn đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên vị trí hàng đầu. Khi đề ra chủ trương gì, quyết sách gì đều phải xuất phát từ lợi ích thiết thân của quần chúng, thể hiện ý chí của nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân và tự giác đón nhận sự giám sát của nhân dân. Chỉ có bằng cách đó Đảng mới giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và chống quan liêu, tham nhũng.

(2). Đảng phải bảo đảm điều hòa những lợi ích thiết thân, giữa các giai tầng xã hội, xử lý thỏa đáng, kịp thời các mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ nhân dân... Hiện nay, việc thực hiện lợi ích thiết thân của nhân dân đòi hỏi Đảng phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích cá nhân với lợi ích quốc gia, tập thể của quần chúng nhân dân. Trong điều kiện lịch sử mới, cơ cấu lợi ích xã hội và mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ các tầng lớp quần chúng nhân dân liên tục phát sinh và biến đổi, ngày càng trở nên phức tạp. Trong lĩnh vực kinh tế, vấn đề nổi cộm hiện nay chính là mâu thuẫn do khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn và số lượng người nghèo ngày càng gia tăng gây nên. Xét theo bình diện xã hội, mâu thuẫn chủ yếu biểu hiện dưới dạng: mâu thuẫn giữa nhà nước, tập thể và cá nhân, giữa người lãnh đạo, quản lý với quần chúng nhân dân; giữa chủ thể kinh doanh cá nhân với cơ quan và nhân viên nhà nước; giữa các ngành, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; giữa người có việc làm với người không có việc làm… Để giải quyết được những mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân hiện nay, về nguyên tắc, phải coi lợi ích quốc gia là tối cao; lợi ích khu vực, địa phương, đơn vị và cá nhân đều là phụ thuộc. Đương nhiên, cùng với việc nhấn mạnh lợi ích quốc gia cần phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia với lợi ích tập thể cục bộ, thậm chí cả lợi ích cá nhân. Lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân rất đa dạng và có nhiều phương diện, vừa bao gồm lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị và lợi ích văn hóa; vừa bao gồm lợi ích cục bộ và lợi ích toàn cục, lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài. Khi tổng hợp và điều tiết lợi ích giữa các tầng nấc khác nhau phải giữ vững nguyên tắc tìm kiếm điểm chung tương đồng, bao quát mọi thành phần, gác lại điểm khác biệt. Đảng cần đặt ra và thực thi các chính sách phản ánh lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân một cách toàn diện nhất. Đó là mấu chốt vấn đề điều tiết các quan hệ lợi ích xã hội.

Chèo lái con thuyền xã hội vốn dĩ phức tạp, cho nên, biết ứng phó kịp thời, khôn khéo trước những "điểm nóng" đột xuất là năng lực và bản lĩnh của mỗi cán bộ lãnh đạo cần phải có. Các cấp ủy đảng, đặc biệt là cấp quận, huyện, xã, phường phải đặc biệt quan tâm giải quyết các vấn đề gây bức xúc đang nảy sinh trong xã hội. Cần phải xây dựng củng cố kiện toàn cơ chế hóa giải mâu thuẫn. Không để tình trạng nhân dân khổ không biết kêu ai, gặp khó khăn không biết bấu víu vào ai, công việc cần giải quyết không biết giải quyết ở đâu. Những vấn đề gì quần chúng nhân dân phản ánh đều phải được xử lý và có hồi âm kịp thời. Lãnh đạo các cấp phải làm được những gì nhân dân muốn, những gì nhân dân cần, phải phát triển hơn nữa mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân, nâng cao ảnh hưởng cũng như sức hiệu triệu của Đảng đối với quần chúng.

Trước mắt tuy còn nhiều khó khăn, thử thách, song lịch sử 90 năm của Đảng cho phép chúng ta tràn đầy lòng tin về tiền đồ của dân tộc./.


TS. Lê Minh Nghĩa



[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr. 65.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,, tr. 63.

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2007, t. 50, tr. 26.

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,tr. 133 - 134.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,tr. 136 – 137.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết