Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Những định hướng lớn trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đảng viên trong hệ thống chính trị

Ngày phát hành: 03/04/2020 Lượt xem 5283

                                                                    

        1. Sự cần thiết phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đảng viên trong hệ thống chính trị

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người đảng viên đó là: “Đảng viên là tế bào của Đảng, đảng viên là một thành viên của Đảng. Đảng viên tốt làm cho chi bộ tốt. Chi bộ tốt làm cho toàn Đảng mạnh”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, gìn giữ đoàn kết thống nhất trong Đảng[1]. Vai trò của đảng viên được thể hiện trong ba mối quan hệ chủ yếu đó là: Quan hệ đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng. Quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng. Quan hệ giữa đảng viên với phong trào cách mạng của nhân dân. Đồng thời Điều lệ Đảng cũng đã quy định các quyền và nhiệm vụ của người đảng viên và Quy định những điều đảng viên không được làm (Theo Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI). Từ Quy định vị trí, vai trò,quyền và nhiệm vụ của người đảng viên là yếu tố quan trọng, quyết định đến sự mạnh, yếu, tồn vong của Đảng cũng như Đảng có uy tín hay không tùy thuộc trước hết vào uy tín của từng đảng viên và chất lượng đội ngũ đảng viên trước nhân dân và xã hội. Thực tiễn trên 87 năm qua, kể từ khi Đảng ra đời lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành thắng lợi, nhất là khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đề ra nhiệm vụ tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, trong đó đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng có tầm quan trọng to lớn. Những tư tưởng về phương thức lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được khái quát nêu thành một nội dung, một nhiệm vụ của công tác xây Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm đưa ra tư tưởng về phương thức lãnh đạo, Người gọi đó là “cách tổ chức”, “sách lược của Đảng”, là “cách lãnh đạo”, là “lối làm việc”.

Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã nói đến phương thức, phương pháp cách mạng khi bàn về cách làm cách mạng. Người chỉ ra “cách tổ chức” công hội, “cách tổ chức” dân cày, cách tổ chức các loại hợp tác xã, cách tổ chức các tổ chức quốc tế... Người khẳng định: “Mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì lại phải biết cách làm thì làm mới chóng”. Theo phương thức lãnh đạo của Hồ Chí Minh là phải biết dựa vào dân, thắt chặt mối quan hệ máu thịt với nhân dân bởi Người chỉ rõ: “dân là gốc”, theo tinh thần “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân”, “dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu vẫn qua”. Người nói: “phải truyền bá lý luận vào trong nhân dân thức tỉnh họ, vận động họ, đoàn kết họ và tổ chức cho công nông binh cùng tham gia cách mạng

Phương thức lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị phương pháp luận quan trọng, đó là: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” có nghĩa là lấy cái không đổi để ứng với vạn sự thay đổi. Theo phương châm này Đảng ta và chính quyền non trẻ đã vượt qua thử thách “ngàn cân treo sợi tóc”.  Ngay từ năm 1947, sau khi đất nước vừa giành độc lập 2 năm, thành lập Chính phủ lâm thời 1 năm, qua thực tiễn đấu tranh bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chính quyền non trẻ, trong hàng ngũ cán bộ cách mạng sớm bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm trong phong cách, phương pháp, lề lối làm việc.. Vì vậy, để kịp thời chấn chỉnh những biểu hiện sai lầm, khuyết điểm, kịp thời chỉnh đốn Đảng, với bộn bề công việc quan trọng của đất nước vừa chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và bọn tay sai phản động trong nước nhằm âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng nước ta, cũng vào lúc cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của nhân dân ta chống Thực dân Pháp mới bắt đầu, song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành thời gian viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” hoàn thành vào tháng 10 năm 1947, ký tên X.Y.Z. Có thể nói đây là tài liệu quan trọng về xây dựng Đảng, về phương thức lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến cách lãnh đạo, lề lối làm việc, phong cách, tác phong công tác... đồng thời Người phê phán và chỉ ra một số bệnh như bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, quan liêu, xa rời thực tế, xa rời quần chúng, lối làm việc hành chính, nặng về chỉ thị, mệnh lệnh, hiệu quả công việc kém, bệnh cá nhân chủ nghĩa, bệnh hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh “cận thị”, bệnh lười biếng… của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy ra đời gần 70 năm, nhưng nội dung của Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị là văn kiện quan trọng làm tài học tập giáo dục phong cách, lề lối làm việc, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế giai đoạn hiện nay nhằm góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nâng cao ý thức chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhằm ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã chỉ rõ.

2. Phương thức lãnh đạocủa Đảng

Trước khi chưa thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, do thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều điểm chưa phù hợp nên đã dẫn đến những yếu kém trong lãnh đạo của Đảng. Đến Đại hội VI, cùng với việc đổi mới tư duy, Đảng đã khẳng định phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, song Đại hội VI chưa sử dụng khái niệm “Phương thức lãnh đạo” mà mới dừng lại ở “đổi mới phong cách làm việc, tác phong đi sâu đi sát thực tế…”. Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã sử dụng khái niệm “Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”, đồng thời Đảng cần có “Quy định cụ thể về mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước  và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là cấp Trung ương”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH  được thông qua tại Đại hội VII, Đảng đã xác định phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[2]; “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[3]. Văn kiện Đại hội giữa nhiệm kỳ Khóa VII đã nhấn mạnh, “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, lãnh đạo thông qua tổ chức đảng  chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên. Lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước[4]. Đại hội VIII xác định phương thức lãnh đạo của Đảng là “Đảng lãnh đạo thong qua tổ chức Đảng chứ không chỉ thông qua cá nhân đảng viên. Đảng lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện… Đảng lãnh đạo phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không điều hành thay Nhà nước. Đảng và mọi đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật và chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình”[5]. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Ban chấp hành Trung ương, tập thể cấp ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra nghị quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về đường lối, chủ trương chính sách về tổ chức cán bộ. Tăng cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân”[6]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện, Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện làm thay Nhà nước, trái lại Đảng phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sang tạo của Nhà nước  trong quản lý đất nước và xã hội[7]. Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Khắc phục tình trạng Đảng bao biện làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đổi mới cách ra Nghị quyết, tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng[8]. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII Đảng, trên cơ sở đánh giá những kết quả và hạn chế, thiếu sót trong công tác xây dựng đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng,Đảng ta đã chỉ rõ: “Nâng cao hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực….; các tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”; “Quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và Ban thường vụ cấp ủy các cấp[9]. Các quan điểm định hướng của Đảng về phương thức lãnh đạo của Đảng qua các nhiệm kỳ Đại hội từ Đại hội VI đến nay cho thấy cùng với việc đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng ngày càng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, Đảng ta luôn coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn xã hội. Chính sự quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nêu trên nên đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước trên 30 năm qua. Phương thức lãnh đạo của Đảng dần được đổi mới. Phương thức lãnh đạo của Đảng theo kiểu áp đặt, bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý Nhà nước đã dần được khắc phục. Đổi mới cách ra Nghị quyết, tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Nếu như trước đây Nhà nước hoạt động chủ yếu hợp thức hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành quy phạm pháp luật của Nhà nước thì thực tế hiện nay nhiều vấn đề Đảng không  quyết định trước, không quyết định các chỉ tiêu, biện pháp cụ thể mà chỉ cho định hướng để Quốc hội, Chính phủ tự giải quyết, tự quyết định các hình thức, biện pháp tiến hành nhằm khắc phục tính thụ động, tăng thẩm quyền và tạo tính năng động, sáng tạo của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Đảng đã chú trọng lãnh đạo mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng như tổ chức thí điểm chủ trương Đại hội Đảng cơ sở bầu trực tiếp Ban thường vụ, Bí thư, phó bí thư. Bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng nhân dân, Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp xã, phường. Tổ chức các hội nghị chất vấn trong Đảng giữa đảng viên với cấp ủy, chất vấn giữa các đại biểu Quốc hội với Thủ tướng, các Phó thủ tướng và các thành viên của Chính phủ trước Quốc hội và cử tri cả nước; tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các thành viên Chính phủ, lấy phiếu tín nhiệm trong Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đổi mới lề lối, phong cách làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị - xã hội theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội. Đảng quy định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và Ban thường vụ cấp ủy các cấp. Tuy nhiên,bên cạnh những thành tựu nêu trên, trong các Văn kiện của Đảng cũng đã thảng thắn chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa được hoàn thiện, còn chậm và lung túng, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng nên hiệu quả lãnh đạo chưa cao thiếu những quy định cụ thể đảm bảo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Đảng, chưa xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong Đảng. Việc đổi mới phong cách lề lối làm việc, tác phong công tác, thực hiện nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm còn diễn ra ở nhiều nơi. Chưa thật sự phát huy vai trò của các tổ chức đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Công tác giáo dục lý luận chính trị, nâng cao trình độ, năng lực  chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vi phạm hoặc có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn đến làm suy yếu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; do buông lỏng quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên dẫn đến còn có đảng viên lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng, gây lãng phí thất thoát lớn tài sản của đất nước, tác hại về kinh tế và làm giảm sút uy tín của Đảng trước nhân dân. Những tồn tại, hạn chế nêu trên Đảng đã nhận thức rõ và đã khẳng định phải tăng cường “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” là nhiệm vụ then chốt hiện nay.

3. Phương thức lãnh đạo của Đảngthông qua đảng viên trong hệ thống chính trị

Bằng hệ thống các quan điểm,định hướng, quy chế, quy định, nguyên tắc..cuả Đảng, thông qua các phương pháp, biện pháp, cách thức, hình thức, chủ thể lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy Đảng các cấp) sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng tác động vào đối tượng lãnh đạo thông qua đội ngũ đảng viên (trước hết đảng viên là lãnh đạo các cấp và đảng viên là người đứng đầu đơn vị) hoạt động trong hệ thống chính trịnhằm thực hiện thắng lợi sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.

Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương xuống đến cơ sở, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị thông qua vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức đảng và sự gương mẫu của đảng viên trong các tổ chức này để thực hiện. Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với đảng viên các tổ chức trong hệ thống chính trị thông qua đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy, chi ủy ở các cơ quan trong hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần phân biệt rạch ròi chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... của đất nước và là để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đi đôi với nâng cao vai trò và hiệu lực hoạt động của Nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân, không phải để hạ thấp hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, đây còn là vấn đề sống còn của Đảng, sự tồn vong của chế độ  mà Đảng ta phải luôn luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Lâu nay, chúng ta vẫn quan niệm cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở Việt Nam là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ” nhưng trên thực tế mới chỉ xác định vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của ba chủ thể mà chưa xác định rõ mối quan hệ của ba chủ thể đó một cách rõ ràng nên trong thực tế khó cụ thể hóa, khó phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân dẫn đến tình trạng Đảng bao biện làm thay, lấn sân hoặc buông lỏng sự lãnh đạo đối với Nhà nước, dẫn đến có việc Nhà nước thụ động không thực hiện đúng chức năng điều hành, quản lý các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước một mặt Đảng phải tuân theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, mặt khác Đảng phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật, Đảng phải bảo đảm cơ bản nhất cho sự điều hành và quản lý đất nước theo Hiến pháp và pháp luật. Mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng về phát triển và quản lý đất nước phải được thể chế hóa về mặt Nhà nước bằng các văn bản pháp luật; đòi hỏi quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, quan hệ giữa Nhà nước với công dân, Nhà nước với doanh nghiệp phải được luật hóa và bị điều chỉnh bởi pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước trước hết Đảng tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội để quốc hội thực hiện tốt hơn nữa chức năng lập pháp và giám sát tối cao nhằm giữ vững định hướng chính trị của sự phát triển đất nước trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Chính phủ về công tác hành pháp, đòi hỏi Đảng phải phân định rõ ràng chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý, điều hành đất nước của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính cao nhất. Đảng lãnh đạo việc đổi mới Chính phủ theo hướng điều chỉnh chức năng, tinh gọn về tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong điều hành quản lý, phục vụ tốt doanh nghiệp và dân cư, đề cao trách nhiệm của Thủ tướng - người đứng đầu Chính phủ và các bộ trưởng là thành viên của Chính phủ đảm bảo sự phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Đối với công tác Tư pháp, sự lãnh đạo của Đảng  theo hướng tôn trọng quyền độc lập đảm bảo khách quan, công bằng của các cơ quan tư pháp theo luật định, đồng thời cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và sự phối hợp giữa cơ quan điều tra và xét xử. Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong mối quan hệ Đảng vừa là thành viên vừa là lãnh đạo Mặt trận và Mặt trận lại là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và các thành viên tiêu biểu trong các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Thông qua các tổ chức này, mọi vấn đề Đảng đưa ra phải được bàn bạc trên tinh thần dân chủ để đi đến thống nhất thành chủ trương, chương trình hành động của Mặt trận và vận động mọi người cùng thực hiện. Đảng lãnh đạo Mặt trận nhưng lại là thành viên của Mặt trận và Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ nên Đảng phải tuân thủ nguyên tắc hiệp thương, vì vậy để lãnh đạo Mặt trận đạt hiệu quả thì Đảng phải có cơ chế lãnh đạo thích hợp chính là Đảng phải thực hiện kết hợp giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong Mặt trận Tổ quốc ở từng cấp cho phù hợp và đạt hiệu quả lãnh đạo cao nhất. Một trong những nguyên tắc tổ chức quan trọng của Mặt trận và các tổ chức thành viên khác là vừa đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tôn trọng tính tự chủ của các thành viên về mặt tổ chức, song trên thực tế việc vẫn chưa được cụ thể hóa thành quy chế dẫn đến cơ chế vận hành mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội còn lúng túng, hiệu quả hoạt động chưa cao

4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đảng viên trong hệ thống chính trị

Đổi mới nội dung lãnh đạo, đổi mới các hình thức, phương pháp, biện pháp, cách thức lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ của Đảng nhằm tác động vào các tổ chức trong hệ thống chính trị thông qua đội ngũ đảng viên hoạt động trong các tổ chức đó nhằm thực hiện thắng lợi sự lãnh đạo của Đảng đạt hiệu quả cao nhất.

Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng thông qua đảng viên trong hệ thống chính trị: (tức là đổi mới hệ thống các quan điểm, định hướng lớn của Đảng trên cơ sở ba mối quan hệ cơ bản của đảng viên: Quan hệ giữa Đảng viên với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng; quan hệ đảng viên với tổ chức của Đảng; quan hệ đảng viện với phong trào cách mạng của nhân dân).

Thứ nhất, Đảng tiếp tục ban hành  đề ra các quy chế, quy định và định hướng lớn đối với việc giáo dục, rèn luyện, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên Cộng sản được coi là “gốc của lập Đảng” như quan điểm của một số nhà khoa học Trung quốc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng”. Căn cứ vào Quy định phân cấp quản lý cán bộ, đảng viên của Đảng đối với các tổ chức Đảng và thực trạng đội ngũ đảng viên sinh hoạt, hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, từng tổ chức đảng có trách nhiệm cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết, các quy định của Đảng để xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện đảng viên thuộc phạm vi quản lý của tổ chức đó.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo trước hết Đảng phải  thực hiện tốt mối quan hệ giữa đảng viên với đường lối chính trị đúng đắn là điều kiện tiên quyết giành thắng lợi. Để có đường lối chính trị đúng đắn, khoa học phù hợp thì Đảng phải coi trọng  nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên bởi vì chính người đảng viên (là lãnh đạo các cấp ủy) trực tiếp đề ra đường lối, chính sách, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính sách. Đường lối và nhiệm vụ chính trị đúng đắn là điều kiện tiên quyết để xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng tốt, nhất là chất lượng chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động. Quan hệ đảng viên với tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên là thành viên của tổ chức đảng, đảng viên có chất lượng cao thì tổ chức đảng vững mạnh, toàn đảng vững mạnh. Tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh điều kiện quan trọng quyết định chất lượng đội ngũ đảng viên. Đảng viên chỉ có thể hoạt động có hiệu quả khi họ được sinh hoạt trong một tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Quan hệ giữa đảng viên với phong trào cách mạng của nhân dân.Đây vừa là nhiệm vụ của đảng viên quy định trong Điều lệ Đảng vừa là môi trường để đảng viên thể hiện rõ vai trò tiên phong gương mẫu và sự cống hiến, trưởng thành khi được thử thách, rèn luyện trong phong trào cách mạng của nhân dân. Một mặt, đảng viên có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, tổ chức hướng dẫn nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác,thông qua phong trào cách mạng của nhân dân đảng viên học tập nhân dân để nâng cao trình độ năng lực thực tiễn, vai trò tiên phong gương mẫu được khẳng định và kiểm nghiệm và từ đó sẽ được dân tin, dân phục, dân yêu mến. Ba mối quan hệ nêu trên có quan hệ mật thiết với nhau, củng cố và tăng cường mối quan hệ đó là nhân tố quan trọng để phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của người đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên và đội ngũ đảng viên; là nhiệm vụ quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, là một nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng Đảng về “tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức”. Kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI; các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp Đại hội XII và Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII của Đảng. Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ tư, Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua đảng viên trong hệ thống chính trị, yêu cầu cấp thiết đặt ra là các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở phải có quyết tâm chính trị cao để thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đây là vấn đề nhức nhối của Đảng, Nhà nước ta, là nguyên nhân dẫn đến uy tín của Đảng, lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút. Đảng, Nhà nước cũng đã nhận thức rõ và đã có nhiều biện pháp phòng, chống và xử lý sai phạm song chưa có biện pháp mạnh và chưa có quyết tâm chính trị cao nên hiệu quả thực hiện còn thấp. Theo tác giả, để thực hiện đạt hiệu cao vấn đề trên đây, một mặt Đảng cần tăng cường các biện pháp quản lý cán bộ, đảng viên, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, trước hết tập trung vào kiểm tra, thanh tra, giám sát cán bộ, đảng viên có chức vụ lãnh đạo, quản lý ở các lĩnh vực trọng yếu của đất nước và xử lý nghiêm minh, chính xác những tổ chức, cá nhân vi phạm bất kể họ là ai, giữ chức vụ gì, khắc phục tình trạng xử lý kỷ luật “trên nhẹ, dưới nặng”. Thực hiện tốt hơn nữa tự phê bình và phê bình trong Đảng. Rà soát, bổ sung và thực hiện nghiêm Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của BCH Trung ương về 19 điều đảng viên không được làm. Đây là quy định rất quan trọng, là biện pháp để ngăn chặn sai phạm về phẩm chất chính trị, tư cách, đạo đức, tiêu chuẩn người cán bộ, đảng viên của Đảng, là căn cứ, nội dung sinh hoạt đảng, quản lý, giám sát các hoạt động của đảng viên, là nội dung, biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự suy thoái” trong Đảng. Trên thực tế, nhiều nơi nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, nội dung của Quy định 47 nên chưa gắn kết nội dung Quy định với nội dung sinh hoạt thường kỳ của cấp ủy, chi bộ.

 

PGS,TS. Trương Thị Thông

Nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.


 



[1](ĐLĐCSVN, NXBCT-HC, H.2011, tr 7).

[2](Cương lĩnh xây dựng đất nước…NXBCTQG, H.1991, tr 21).

[3](Cương lĩnh xây dựng đất nước…NXBCTQG, H.1991, tr 21).

[4] (Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII ( lưu hành nội bộ) H.1994, tr 67).

[5](Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXBCTQG, H.1996, tr 149, 150).

[6](Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBCTQG, H.2001,tr 144, 145).

[7](Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXBCTQG, H.2006,tr 137, 138).

[8] (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG, H.2011,tr 264)

[9]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXBCTQG, H.2016,tr 214, 215).

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết