Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Sự lãnh đạo của Đảng, vai trò hệ thống chính trị và phát huy dân chủ ở nông thôn

Ngày phát hành: 17/02/2022 Lượt xem 1480

 

Nông dân xã Ái Quốc (Hải Hưng) báo cáo kết quả sản xuất với Bác Hồ (1958)

 

Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò hệ thống chính trị có vai trò quyết định  bảo đảm thành công cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát huy dân chủ, nâng cao đời sống người dân nông thôn. Vì vậy, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải gắn liền với đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ ở nông thôn.

 

 

1. Nông thôn Việt Nam thập niên qua biến đổi mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử dân tộc, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới đối với sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của hệ thống chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

 Việt Nam là quốc gia hình thành và phát triển dựa trên nền kinh tế tiểu nông khá ổn định qua hàng ngàn năm, kinh tế hàng hóa ở nông thôn phát triển chậm chạp, yếu ớt. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc như thập niên vừa qua, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam lại biến đổi với tốc độ nhanh chóng, cường độ mạnh mẽ, nhịp độ gấp gáp như thế, trước lực đẩy của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

 

Biến đổi trước hết là chuyển từ một nền kinh tế tiểu nông, sản xuất manh mún, dựa trên các thửa ruộng chia nhỏ cho từng hộ gia đình kết hợp với các mảnh “vườn tạp” sản xuất theo lối tự cấp, tự túc, sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa; từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn chỉ trao đổi sản phẩm dư thừa của nền sản xuất tiểu nông (qua các phiên chợ làng) sang nền kinh tế hàng hóa phát triển với mục tiêu sản xuất để bán ra thị trường; từ mỗi làng/bản như một ốc đảo biệt lập sang liên kết, gắn kết, hội nhập và phát triển. Có thể nói, công cuộc đổi mới đã xác lập những bước đi quan trọng cho phát triển kinh tế nông nghiệp, xã hội nông thôn, đời sống nông dân, mà thập niên qua đã tạo được sự bứt phá với tốc độ nhanh hơn do tác động của kinh tế thị trường, của các chương trình xây dựng nông thôn mới, của áp lực hội nhập quốc tế.

 

Đó là chuyển sang nền kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn thích ứng dần với cơ chế thị trường. Đã hình thành khá phổ biến tư duy sản xuất để bán ra thị trường, sản xuất theo quy mô lớn, thậm chí nhiều nơi còn đổi mới tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản tiếp cận với thị trường thế giới; vườn tạp dần thu hẹp, chợ đầu mối phát triển phục vụ cho chu chuyển hàng hóa khoảng cách xa; doanh nghiệp trở thành nhân tố trung tâm tạo động lực phát triển khi gắn kết chặt chẽ hơn với hợp tác xã, hộ gia đình. Các tài nguyên và giá trị bản địa đã được chú trọng, phát huy, gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Nhờ đó tạo nên giá trị kinh tế cao hơn, mang lại đời sống khá giả hơn, cải thiện rõ rệt đời sống người dân nông thôn hầu hết các địa phương. Không còn là nền kinh tế thuần nông mà nhiều nơi phát triển kinh tế nông thôn với cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ gắn kết chặt chẽ với đô thị hóa nông thôn. Kết cấu hạ tầng nông thôn thay đổi lớn sau 10 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, nhất là đường sá, điện thắp sáng, viễn thông, truyền hình, phát thanh, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi…

 

Đời sống cư dân nông thôn đã được nâng lên rõ rệt, từ ăn, mặc, ở, đi lại, nghe nhìn đến tiếp cận các dịch vụ công cộng cơ bản như giáo dục, y tế, văn hóa. Cơ cấu chất lượng bữa ăn gia đình nông thôn được cải thiện rõ rệt để đáp ứng cả nhu cầu dinh dưỡng, phát triển thể chất, bảo đảm sức khỏe. Nhà cửa và các phương tiện thụ hưởng văn hóa, đi lại như radio, tivi, xe máy,… khá phổ biến ở hầu hết các gia đình khá giả, thoát cảnh khỏi đói nghèo; một tỷ lệ lớn điểm dân cư trung tâm xã được kết nối internet. Không gian công nông thôn không chỉ còn đường gạch, đình làng, bến nước, cây đa truyền thống, mà bổ sung thêm các đường bê tông có điện thắp sáng, nhà văn hóa, kết nối internet, các thiết chế văn hóa mang yếu tố hiện đại.

Thành tựu giáo dục, đào tạo nhân lực có nhiều chuyển biến, giúp người nông dân có điều kiện nâng cao dân trí, rèn luyện tay nghề lao động, kịp thời thích ứng với chuyển dịch cơ cấu ngành nghề. Bảo hiểm y tế hướng đến bao phủ cư dân nông thôn mà ở đó người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước, bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh. Số hộ giàu, khá giả dựa vào phát triển kinh tế nông nghiệp ngày càng tăng lên, xuất hiện nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao, sản xuất trang trại, liên kết hợp tác, mang lại hiệu quả kinh tế, trở thành nhân tố tích cực gắn với sự hình thành những nhà nông thế hệ mới, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thúc đẩy đổi mới tổ chức sản xuất, dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn.

 

Tuy vậy, biến đổi của kinh tế và xã hội nông thôn chứa đựng cả mặt tích cực tiêu cực, chức năng phản chức năng. So với mặt bằng chung của cả nước, trình độ phát triển kinh tế khu vực nông thôn vẫn thấp hơn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng hải đảo. Sản xuất nông nghiệp vẫn bấp bênh; tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún còn phổ biến ở nhiều nơi, chưa  dễ gì chuyển sang sản xuất hàng hóa lớn; đời sống một bộ phận nông dân vẫn khó khăn, nhất là khi gặp bất lợi của thị trường, thời tiết. Biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường diễn biến phức tạp; có mặt do tính cực đoan của tự nhiên, có mặt do con người gây nên, mà nông nghiệp, nông thôn vẫn là nơi hứng chịu hậu quả nặng nề, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Như một tất yếu, công nghiệp hóa, đô thị hóa đang “hút” một lực lượng lớn khỏi nông nghiệp, nông thôn mà hệ  quả để lại cho nông thôn một cơ cấu dân cư già hóa, nữ hóa, thiếu lao động tay nghề. Đất sản xuất nông nghiệp nhiều khu vực đã và đang được chuyển đổi mục đích sử dụng để mở nhà máy, khu công nghiệp, khu đô thị mà bản thân người nông dân lại ít được hưởng lợi từ quá trình dịch chuyển đất đai. Văn hóa làng/bản, gia đình, lối sống nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, nhiều mặt đe dọa đến bản sắc văn hóa truyền thống. Nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội, xung đột xã hội khu vực nông thôn đáng lo ngại nhất là “tín dụng đen”, tranh chấp đất đai, khiếu kiện, “hiện tượng cận tôn giáo”, mê tín dị đoan.

 

Cả hai mảng sáng và tối của bức tranh xã hội nông thôn đặt ra những yêu cầu cao hơn và thách thức lớn hơn đối với sự lãnh đạo của Đảng, vai trò hệ thống chính trị và nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ. Mảng sáng đòi hỏi công tác lãnh đạo, quản lý phải nâng tầm với nhịp độ khẩn trương hơn, tư duy “động” hơn bảo đảm cho địa bàn nông thôn không lỡ nhịp với xu thế phát triển. Mảng tối đòi hỏi phải có những tư duy đột phá tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn để tận dụng cơ hội, đẩy lùi khó khăn, thách thức, mà ở đó chứa đựng cả bản lĩnhtrách nhiệm, tình cảm với người nông dân – vốn là giai tầng đóng góp nguồn lực (nhân lực, vật lực, đất đai…) nhiều nhất cho cách mạng giải phóng dân tộc, cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng lại chịu nhiều thua thiệt trong phát triển.

 

 

2. Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của hệ thống chính trị trước hết thể hiện ở tư duy lãnh đạo trước các vấn đề “tam nông” khi mà phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn truyền thống không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

 Trước những yêu cầu rất mới về “tam nông”, nếu tổ chức Đảng và hệ thống chính trị các địa phương thiếu tầm nhìn, tư duy đột phá sẽ khó đáp ứng được yêu cầu, nhất là những vấn đề quản lý và phát triển gắn với nền kinh tế thị trường hiện đại, với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, với thích ứng với biến đổi khí hậu, với bảo vệ môi trường sinh thái; phát triển nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn, thúc đẩy đô thị hóa; quản trị xã hội dựa trên luật pháp kết hợp với luật tục, phát triển kinh tế với bảo vệ bản sắc văn hóa làng/ xã.

 

Phát triển “tam nông” trước hết đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có tư duy kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế, đặt phát triển kinh tế nông nghiệp trong tổng thể phát triển kinh tế nông thôn, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy đô thị hóa. Trên cơ sở tư duy lãnh đạo đó mới khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong kinh tế thị trường; xây dựng thể chế quản trị địa phương phù hợp; huy động các nguồn lực và động lực cho phát triển kinh tế. Đặc biệt là phải tư duy chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún sang nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ; hình thành nên các mô hình tổ chức sản xuất lấy nông dân làm chủ thể, doanh nghiệp làm động lực quan trọng cho kết nối giữa người sản xuất và thị trường trong các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác mà ở đó doanh nghiệp chịu trách nhiệm các khâu đầu vào, đầu ra, chế biến sản phẩm gắn với định hình tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo; người nông dân hoặc hợp tác xã sản xuất theo hợp đồng ổn định với doanh nghiệp, khắc phục tình trạng “được mùa rớt giá”.

Phải đặt kinh tế nông thôn với tính gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp với dịch vụ, công nghiệp vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp để làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn trong xây dựng nông thôn mới. Cần định hình phương châm “hành động địa phương, tầm nhìn toàn cầu” gắn với quá trình hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sản xuất từng mặt hàng, từng sản phẩm không tách khỏi nhu cầu của thị trường thế giới, nhất là những nhu cầu tinh tế của các “thị trường khó tính” bảo đảm sản phẩm an toàn, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật. Các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới (FTA) mở ra cơ hội cho sản xuất nông nghiệp tìm kiếm được các thị trường mang lại giá trị gia tăng cao, nhưng thách thức cũng gay gắt hơn khi ngày nay sản xuất lương thực theo các cam kết này không chỉ đáp ứng nhu cầu thực phẩm thuần túy, mà còn phải góp phần vào xây dựng thế giới văn minh, tốt đẹp khi tham dự tích cực vào bảo đảm an toàn sức khỏe, làm đẹp cho con người, bảo vệ môi trường sinh thái.

 

 

Đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý phù hợp cơ chế thị trường phải gắn với định hình tình cảm, trách nhiệm với nông dân, với lĩnh vực nông nghiệp. Có một thực tế là, đầu tư vào nông nghiệp đem lại “dân giàu”, nhưng nguồn thu cho địa phương không như đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ; đầu tư vào nông nghiệp phải đòi hỏi tính căn cơ, không chỉ tính đến bài toán nâng cao thu nhập mà cả những vấn đề dịch chuyển cơ cấu lao động, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc… Phát triển công nghiệp, dịch vụ cần đến một chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn với quy hoạch mặt bằng đất đai gắn với chính sách thuế ưu đãi, cải cách thủ tục hành chính thuận tiện, còn phát triển nông nghiệp dày công hơn rất nhiều, khó khăn bội phần. Ở đây cần đến nhiều lời giải cùng lúc của bài toán “tam nông”: bảo đảm cho sản xuất, thị trường ổn định; dịch chuyển cơ cấu lao động; nâng cao thu nhập gắn với thụ hưởng văn hóa của nông dân; bảo vệ và góp phần tái tạo môi trường sinh thái; bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc gắn với nền sản xuất nông nghiệp, với cây con, với nghề nông, với các thiết chế văn hóa của văn minh nông nghiệp… đó là cả một sự nghiệp giáo dục lại người nông dân đầy khó khăn, gian khổ.

Phát triển “Nông nghiệp sinh thái, Nông thôn hiện đại, Nông dân văn minh” cần đến rất nhiều nguồn lực đầu tư công với diện tích trải rộng khắp mọi vùng miền đất nước, nơi càng khó khăn, càng đặt ra những yêu cầu cao về bảo đảm an ninh, quốc phòng, bình đẳng giữa các dân tộc, càng cần suất đầu tư lớn mà không thể tính thuần túy hiệu quả kinh tế. Nếu người lãnh đạo thiếu tình thương yêu, thiếu thấu hiểu thấu cảm giai cấp nông dân đã từng đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, đã hy sinh rất nhiều cho công nghiệp hóa thì khó có thể hình thành được tư duy đổi mới, phát triển “tam nông”. Bởi nguồn lực cho công nghiệp hóa, đô thị hóa hầu như “hút” từ nông thôn (nhân lực, vật lực, tài lực, đất đai,…), rồi cả gây ô nhiễm môi trường thì “đẩy” cho nông thôn gánh chịu (nơi xả nước thải, bãi thải rác công nghiệp, rác thải sinh hoạt cho đô thị, nghĩa trang…). Phải loại trừ những quan niệm phát triển thiếu lương tâm khi đánh đổi lợi ích của nông dân, nông thôn cho công nghiệp hóa, đô thị hóa mà đằng sau đó luôn có bóng dáng các “nhóm lợi ích”. Vì thế, phát triển “tam nông” cần đến cả tư duy đạo lý phát triển, cần cả trí tuệ lương tâm, trách nhiệm từ phía người lãnh đạo -  những người luôn phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, có lòng yêu thương nông dân.

 

Cũng chính trên nền tảng văn hóa đó mới giúp người lãnh đạo thống nhất giữa khai thác các tiềm năng thế mạnh nông thôn với bồi dưỡng sức dân, chăm lo an sinh xã hội nông thôn; lấy tư duy doanh nghiệp làm động lực cho đổi mới kinh tế nông thôn với chăm lo xây dựng các thiết chế kinh tế mang tính xã hội sâu sắc  có vai trò bảo vệ nông dân, bảo đảm phát triển hài hòa kinh tế nông thôn trước thách thức của thị trường, nhất là hội nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp xã hội; phát triển kinh tế với bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa làng/bản, bảo vệ môi trường sinh thái.

Công nghiệp hóa dễ dẫn tới tư duy khai thác, huy động mọi nguồn lực nông thôn, nông dân cho phục vụ xây dựng nhà máy, khu công nghiệp, đô thị mà quên mất mặt bồi dưỡng, chăm lo phát triển, tái tạo nguồn lực từ nông dân, nông thôn. Vì vậy, gắn với mỗi chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn phải luôn chú trọng đào tạo nghề, chuyển đổi sinh kế, làm cho nông dân thật sự là chủ thể phát triển nông thôn, được hưởng lợi từ chính quá trình dịch chuyển đất đai, không bị gạt ra ngoài lề tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.

Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải coi trọng xây dựng, củng cố hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác để liên kết nông dân tạo nên sức mạnh trong đàm phán, ký kết hợp đồng và chủ động tham dự cùng doanh nghiệp vận hành các mô hình tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hạn chế thua thiệt trước cơ chế thị trường.

Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề lớn của xây dựng nông thôn mới, mà ở đó phải gắn kết chặt chẽ giữa giữ gìn các thiết chế văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp với loại trừ các hủ tục lạc hậu đang cản trở tiến bộ, văn minh. Từ lãnh đạo đến người dân phải ý thức một cách sâu sắc trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, vì một nền nông nghiệp xanh, bền vững, vì chất lượng sống của người dân nông thôn, tạo nên các vành đai xanh cho các đô thị đang đứng trước nhiều áp lực “bê tông hóa” và hiệu ứng nhà kính.

 

 

3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản  lý của nhà nước, phát huy trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội là những nhân tố quyết định nhất bảo đảm xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Bên cạnh tính phổ biến, cần chú ý tính đặc thù của từng nơi, từng cấp lãnh đạo, quản lý do chi phối của tính địa phương, tính tộc người; cần kết hợp chặt chặt chẽ giữa luật pháp và luật tục, giữa tri thức khoa học và tri thức địa phương trong lãnh đạo, quản trị địa phương; phân cấp phân quyền thoáng rộng đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, chống cục bộ, phân tán, tùy tiện kiểu “phép vua thua lệ làng”; phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu, coi trọng vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư.

 

Đội ngũ cán bộ đóng vai trò then chốt trong xây dựng Đảng, chất lượng  quyết định lãnh đạo, quản lý và hiệu quả tổ chức thực hiện các quyết định đó trong thực tiễn. Với địa bàn nông thôn vai trò cán bộ càng quan trọng, mà sức mạnh của nó được cấu thành bởi trình độ, phẩm chất từng cá nhân, sức mạnh tập thể với cơ cấu hợp lý cả về độ tuổi, giới, nghề nghiệp, dân tộc, trong đó có cấu lứa tuổi, cơ cấu dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ nông thôn là vấn đề cấp bách hiện nay, bao gồm cả đào tạo qua trường lớp và đào tạo thực hành trên hiện trường. Lựa chọn, mở các khóa đặc biệt đào tạo nên một đội ngũ tinh hoa các dân tộc thiểu số có uy tín, ảnh hưởng lớn.

Cơ cấu cán bộ phải bảo đảm hài hòa, hợp lý giữa các địa phương, các tộc người, nhờ đó củng cố khối đoàn kết nhất trí, phát huy được vai trò, thế mạnh của từng loại cán bộ. Đối với cán bộ dân tộc thiểu số, khi xây dựng các tiêu chí đều phải tính đến đặc thù như cử đi đào tạo sớm hơn, thời gian ưu tiên đào tạo có thể dài hơn, những vị trí cần cơ cấu cán bộ dân tộc thiểu số nếu chưa có người đủ tiêu chuẩn thì tạm thời bỏ trống.

Tăng cường cạnh tranh khi lựa chọn bổ nhiệm cán bộ, nhưng phải tạo không gian cạnh tranh riêng giữa các cán bộ dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh luân chuyển theo trục dọc, tức đưa cán bộ địa phương lên Trung ương làm việc một thời gian để nắm chính sách vĩ mô rồi luân chuyển trở lại địa phương làm việc. Đối với cán bộ dân tộc thiểu số, khi thực hiện chủ trương không bố trí người địa phương làm bí thư cấp ủy tại địa phương thì phải luân chuyển đến các địa phương khác trong vùng có đặc điểm tương đồng về thành phần tộc người, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán.

Coi trọng phát triển đảng viên khu vực nông thôn, khắc phục tình trạng giảm sút đảng viên do xuất cư làm ăn tại các khu công nghiệp, đô thị. Có chính sách tạo nguồn, đào tạo, sử dụng đảng viên hết thời gian nghĩa vụ quân sự, công an trở về nông thôn lao động để làm nòng cốt cho xây dựng cốt cán đoàn thể và cán bộ hệ thống chính trị cấp cơ sở. Đào tạo cán bộ nông thôn phải rất thiết thực, hiệu quả, coi trọng thực hành, hạn chế lý thuyết dài dòng, xa rời thực tế.

 

Do vùng nông thôn mỗi nơi có đặc điểm rất khác nhau về điều kiện địa lý, địa mạo, địa hình, thủy văn, dân cư, phong tục tập quán nên phải phân cấp mạnh mẽ, tạo dư địa rộng cho phát huy quyền tự chủ của địa phương trong hoạch định các chính sách địa phương, thực hiện quản trị địa phương. Trong điều kiện kinh tế thị trường càng phải chú ý phân cấp, phân quyền, lấy tín hiệu thị trường làm căn cứ cho các quyết định lãnh đạo quản lý, bảo đảm tính linh hoạt, chủ động, thích ứng tình hình. Đặc biệt các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng hải đảo xa xôi, rất cần đến phân cấp, phân quyền đủ rộng để địa phương có đủ thẩm quyền giải quyết những vấn đề đặc thù phát sinh trên địa bàn. Mặt khác, phải tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm tra, kịp thời uốn nắn các hành vi sai phạm, nhất là các biểu hiện tùy tiện, cục bộ địa phương. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã mạnh dạn thực hiện phân cấp, phân quyền, nhưng khâu kiểm tra, thanh tra chưa ngang tầm, để xảy ra nhiều sai phạm, khiến phải xử lý hình sự, mất mát cán bộ. Cùng với tăng cường thanh tra, kiểm tra của Trung ương đối với địa phương là phải nâng cao hiệu quả tự kiểm tra, giám sát nội bộ; kiểm tra, giám sát của cấp tỉnh đối với cấp huyện, cấp huyện đối với cấp xã, xử lý nghiêm các sai phạm để cảnh tỉnh, răn đe, chống các biểu hiện tùy tiện, cục bộ địa phương.

 

Kết hợp giữa luật pháp với luật tục, giữa tri thức khoa học với tri thức bản địa trong quản lý xã hội nông thôn là một đặc điểm nổi bật cần được chú trọng. Tuyệt đối hóa luật tục dễ dẫn tới tùy tiện, xa rời luật pháp, nhưng không coi trọng đúng mức luật tục thì luật pháp khó vào cuộc sống. Cán bộ công tác ở nông thôn phải nắm vững phong tục, tập quán, luật tục không chỉ phục vụ có hiệu quả cho công tác vận động quần chúng, mà kể cả hoạch định chính sách địa phương thuận lòng dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Cùng với đó phải coi trọng tri thức địa phương, tri thức tộc người trên tất cả các lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường, phương thức tổ chức sản xuất, quản lý xã hội,… để bảo đảm cho tri thức khoa học đi vào cuộc sống một cách thuận lợi. Tri thức địa phương được chung đúc từ chính môi trường sống, lao động, sản xuất, được thử thách qua nhiều thế hệ, được lưu giữ và trao truyền qua trí nhớ, thực hành, nên nó phù hợp với thực tiễn đa dạng của từng tộc người, từng địa bàn.

Thất bại của một số chính chính sách vĩ mô khi tổ chức thực hiện ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nguyên nhân sâu xa từ thiếu hiểu biết tri thức địa phương, áp đặt cứng nhắc chính sách chung vào những địa bàn đặc thù. Các sản phẩm thuộc “Chương trình mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) có giá trị cao khi bán trên thị trường, sâu xa chính là sự kết tinh các giá trị tài nguyên bản địa và tri thức bản địa. Chính tri thức bản địa tạo nên những sản phẩm độc đáo phục vụ cho du lịch, tạo nên tính đa dạng của bản sắc văn hóa vùng miền, tộc người, địa phương. Khi chúng được hóa thân vào sản phẩm độc đáo/khác biệt trao đổi trên thị trường sẽ tạo nên những giá trị vượt trội so với sản phẩm được sản xuất theo kiểu đại trà.

 

Đối với địa bàn nông thôn cần chú trọng đến phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, trước hết là trách nhiệm nêu gương. Bất cứ nơi nào nêu gương cũng quan trọng, nhưng với người dân nông thôn nêu gương càng được đề cao khi họ trọng làm hơn nói, trọng thực hành hơn lý thuyết. Vì vậy, điều quan trọng là phải cải cách hành chính đảng, cải cách hành chính nhà nước mạnh mẽ ở nông thôn, khắc phục bệnh văn bản dài dòng khiến cho cán bộ cấp dưới và người dân khó tiếp nhận, thậm chí rất mệt mỏi với “báo cáo”. Văn bản phải thật ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ, dễ làm, đúc kết thành phương châm rõ việc, rõ người, rõ địa chỉ, rõ kết quả. Đặc biệt cán bộ lãnh đạo phải thật sự gương mẫu thì mới thuyết phục được cấp dưới, khiến quần chúng tin và làm theo. Cần gấp rút hoàn thiện lý luận về lãnh đạo địa phương và quản trị địa phương; xây dựng những quy định khung cho các địa phương định hình phương thức lãnh đạo, quản lý đặc thù cho riêng mình; xây dựng các bộ ứng xử của cán bộ với cấp dưới, với người dân, được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó có lấy ý kiến về mức độ hài lòng của người dân đối với lãnh đạo, nhất là cán bộ hệ thống chính trị cơ sở nông thôn.

 

 

4. Phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết nông thôn, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân bắt đầu từ giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống dân sinh, phát triển nông thôn, xử lý từ sớm, từ gốc, từ xa các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ gây xung đột xã hội nông thôn.

 

Phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết nông thôn dựa trên mẫu số chung là cùng chung tay xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Đó là hướng đến sản xuất theo chuỗi giá trị; nâng cao đời sống nông dân khá giả, văn minh; phát triển nông thôn hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, vận động nông dân chuyển mạnh từ nền nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp sinh thái, tiếp cận với thị trường theo chuỗi giá trị, sản xuất “xanh”, an toàn, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, lấy hợp tác xã nông nghiệp, tổ hợp tác làm nòng cốt. Đoàn kết và dân chủ phải dựa trên cơ sở không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông thôn, xây dựng nông dân khá giả, định hình những nhà nông thế hệ mới chuyên nghiệp, thích ứng với nền kinh tế thị trường hiện đại. Hướng tới nông dân và nông thôn văn minh trên cơ sở kế thừa, chọn lọc các giá trị truyền thống tốt đẹp và gạn lọc, loại bỏ các hủ tục lạc hậu hàng ngàn đời đè nặng lên vai người nông dân và mỗi xóm làng, từ ăn, ở, vệ sinh, đi lại, tổ chức gia đình, làng xóm gắn với xây dựng nông thôn mới.

 

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và bảo đảm nguồn lực giải quyết những vấn đề cấp bách về phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho khu vực nông thôn bảo đảm phát triển bền vững, khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực có kiến thức và kỹ năng phục vụ cho phát triển kinh tế và quản lý xã hội nông thôn.  Phát huy vai trò của các Ngân hàng chính sách xã hội, Quỹ tín dụng nhân dân để bảo đảm nguồn vốn cho khu vực nông thôn, đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen”. Phát triển mô hình trung tâm đấu giá nông sản để bảo đảm giá cả nông sản ổn định, mang lại lợi ích cao nhất cho nông dân. Tiếp tục hỗ trợ cho người nghèo, người thu nhập thấp mua bảo hiểm y tế, bảo đảm mở rộng phạm vi bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân. Coi trọng củng cố y tế cơ sở, y tế cộng đồng gắn với xây dựng đội ngũ bác sĩ cộng đồng đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng, hướng tới quản lý hồ sơ sức khỏe đến từng cá nhân, hộ gia đình gắn với chuyển đổi số. Thực hiện cấp phát miễn phí một số tờ báo, rađiô đến tận nhà văn hóa thôn/bản; đặt lộ trình miễn phí internet tại các không gian công cộng nông thôn. Nghiên cứu các mô hình bảo hiểm nông nghiệp và bảo đảm lương hưu cho nông dân.

 

 

Xây dựng quan hệ giai cấp tại nông thôn hướng vào tạo nền tảng vững chắc cho củng cố hệ thống chính trị và dẫn dắt người dân làm kinh tế. Vừa chăm lo giảm nghèo bền vững, vừa đầu tư xứng đáng vào phát triển các nhân tố tiêu biểu, ưu trội có năng lực làm ăn kinh tế, có tinh thần cộng đồng, có tố chất dẫn dắt xã hội nông thôn, kể cả đào tạo, bồi dưỡng, cơ cấu làm bí thư cấp ủy cơ sở. Đó là những nhà nông thế hệ mới hoặc những hộ kinh doanh kinh tế nông thôn tiêu biểu. Thu hút những sinh viên được đào tạo bài bản, có tâm huyết với nông nghiệp trở về nông thôn khởi nghiệp bằng các cơ chế ưu đãi vay vốn, tạo quỹ đất phát triển nông trại, ứng dụng khoa học - công nghệ kết hợp với phát huy giá trị tri thức địa phương, đồng thời tạo nguồn cho cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Chuyển đổi các trường đào tạo kỹ sư nông nghiệp hướng mạnh vào đào tạo kỹ sư thực hành mà ở đó phải dành ít nhất 50% thời gian đào tạo để xây dựng đề án và thực hành đề án để trở thành những nhà nông chuyên nghiệp (đề án phải xác định được quỹ đất, cơ chế có được quỹ đất, mô hình tổ chức sản xuất, đầu vào, đầu ra sản phẩm, công nghệ ứng dụng, thị trường lựa chọn, địa chỉ cung cấp nguồn vốn, địa chỉ bảo lãnh… và thực nghiệm đề án đó).

 

Kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở gắn với nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ trong sinh hoạt cấp ủy, chính quyền. Củng cố, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, xây dựng khối đoàn kết nông thôn. Nâng cao năng lực và chủ động tham dự của Hội nông dân trong những vấn đề thiết thực của giai cấp nông dân, thực hiện liên minh giữa  công nhân, nông dân và trí thức trong điều kiện mới (như mô hình “bốn nhà” – nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước).

Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trước nhân dân những vấn đề trong phạm vi  quy định, giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo, làm tốt công tác dân vận. Phát huy vai trò của tri thức địa phương, của luật tục trong quản lý xã hội nông thôn, kết hợp giữa cơ chế quản lý hành chính nhà nước với cơ chế tự quản của cộng đồng gắn với tôn trọng, sử dụng già làng, trưởng bản, người có uy tín.

Tập trung củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng tại các vùng có đông giáo dân, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, căn cứ kháng chiến. Chú trọng năng lực tham dự của Ngân hàng chính sách xã hội vào công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở gắn với những chương trình hành động, việc làm thiết thực, cụ thể như xóa đói giảm nghèo, đẩy lùi tình trạng “tín dụng đen”.

Củng cố, nhân rộng các mô hình hội quán, thiết chế văn hóa ở làng/ bản kết hợp giữa sinh hoạt chính trị với chia sẻ kinh nghiệm quản lý cộng đồng, kinh nghiệm làm ăn, sinh hoạt văn hóa. Cần đổi mới hình thức và nội dung sinh hoạt chi bộ; triển khai các chủ trương của Đảng ở cộng đồng dân cư bảo đảm dung dị, gần gũi với nhu cầu thiết thân của người dân; mở rộng việc nhất thể hóa bí thư chi bộ và trưởng thôn/bản. Các chi hội, chi đoàn, câu lạc bộ của các đoàn thể nhân dân  (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh) tại cơ sở phải vận hành theo cơ chế cộng đồng, bảo đảm tính cộng đồng sâu sắc, đủ sức hấp dẫn lôi cuốn đoàn viên, hội viên giải quyết những vấn đề cuộc sống cấp bách đặt ra như giảm nghèo, làm giàu chính đáng, bình đẳng giới, nuôi dạy con cái, đào tạo nghề, phòng chống tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm.

 

Phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa, từ gốc những nhân tố tiềm ẩn có nguy cơ gây mất ổn định nông thôn dựa trên nguyên lý cộng đồng kết hợp với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là ở những nơi có điểm nóng về tranh chấp đất đai, “tín dụng đen”, ô nhiễm môi trường, vùng có đông giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số bị các thế lực xấu lợi dụng, kích động, chia rẽ khối đoàn kết nông thôn. Cần đặc biệt coi trọng củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực quản lý của hệ thống chính trị cơ sở những địa bàn có xung đột tôn giáo, dân tộc, kể cả tăng cường cán bộ từ cấp trên trong một thời gian nhất định. Sớm sơ kết, đánh giá hiệu quả việc sáp nhập xã, đặt trong mối liên thông với sáp nhập huyện. Kết hợp tốt giữa phát huy vai trò của lực lượng công an cấp xã với thực hiện tự quản trong bảo vệ an ninh trật tự thôn xóm, bảo đảm môi trường cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19.

 

PGS.TS Đoàn Minh Huấn

Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản,
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương. 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết