Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Sự phát triển nhận thức của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển xã hội

Ngày phát hành: 16/02/2019 Lượt xem 11636

1. Sự phát triển lý luận của Đảng về vai trò "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội"

Nếu như ở giai đoạn tiền khởi nghĩa, vào năm 1943, Đảng ta đã có Đề cương về văn hóa Việt Nam với phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng thì sau khi thống nhất đất nước, nhận thức của Đảng về văn hóa từng bước được nâng lên. Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra đường lối, chủ trương, nhiệm vụ của công tác văn hóa, văn nghệ. Trong đó Đảng ta đã đề cập đến việc "đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa" và nhiệm vụ "xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa". Đại hội lần thứ IV của Đảng xác định: "Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hóa là tạo ra cho mọi người một cuộc sống tinh thần phong phú, phù hợp với mục đích cao quý của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn ngày càng đầy đủ không những nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu văn hóa của toàn xã hội; là biến mọi giá trị văn hóa thành tài sản của nhân dân và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa;…"[1].

 

Đình làng Đình Bảng thuộc thôn Đình, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn, người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010).

 

Ngày 13-4-977, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 08-CT/TW về công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh: "Từng bước xây dựng đất nước ta thành một xã hội văn hóa cao". Đại hội lần thứ V của Đảng xác định: "Về tư tưởng và văn hoá, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới bám thật sát yêu cầu cách mạng và phù hợp với khả năng kinh tế, thúc đẩy tốt hơn công cuộc xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới. Tăng cường đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn hoá thực dân mới, chống mọi ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá phản động"[2].

Như vậy, có thể thấy rằng, trước đổi mới, nhận thức về vai trò văn hóa của Đảng ta chưa thật sự đầy đủ, theo đó văn hóa chỉ được hiểu như là các hoạt động văn nghệ, vui chơi, giải trí. Mặt khác, do việc thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về văn hóa không kịp thời, cụ thể, nên công tác lãnh đạo, quản lý đối với văn hóa vẫn nặng tính hành chính, mệnh lệnh. Sự tồn tại kéo dài của cơ chế tập trung, bao cấp trong những năm đầu thập niên 80 (thế kỷ XX) là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của xã hội nói chung và của văn hóa nói riêng.

 Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cùng với sự đổi mới tư duy chính trị, tư duy kinh tế, Đảng ta cũng đã có những đổi mới quan trọng lý luận về văn hóa. Nghị quyết 05-NQ/TW, ngày 28-11-1987 của Bộ Chính trị khóa VI về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, đã xác định: "Văn hóa… có tác dụng to lớn trong việc góp phần thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, có chức năng bồi dưỡng đạo đức, tình cảm và năng lực thẩm mỹ cho con người, thoả mãn những nhu cầu văn hóa ngày càng tăng của nhân dân"[3].

Việc coi trọng các chính sách đối với văn hóa và con người thực chất là sự khẳng định tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, được phát triển, nâng tầm trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đại hội VI của Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tiếp nhận các giá trị văn hóa của dân tộc và thời đại, gắn chặt nội dung và tinh thần của sự nghiệp đổi mới. Năm 1987, nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: "Đổi mới là văn hóa, văn hóa là đổi mới". Đây là một bước ngoặt trong nhận thức của Đảng về đổi mới văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.

Từ khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề văn hóa, con người ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Về vai trò của văn hóa, văn học, nghệ thuật, Đại hội VI khẳng định: "Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người"[4]. Đề cao vai trò của văn hóa trong đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng, nhận thức, dứt bỏ cơ chế cũ không còn phù hợp, tìm tòi xây dụng cơ chế mới; nhấn mạnh: đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hóa, tạo ra môi trường văn hóa phù hợp cho sự phát triển, lấy văn hóa làm động lực và mục tiêu của đổi mới.

 Nghị quyết 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VI khẳng định: "... văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội"[5]. Nghị quyết cũng đã có sự điều chỉnh mới cả nội dung và cách diễn đạt để thành luận điểm: "Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc"[6]. Với nhận thức đó, Đảng đã làm rõ, phê phán quan niệm khá phổ biến trước đây coi văn hóa là hoạt động phi sản xuất, có tính tiêu dùng, hoặc chỉ là phương tiện giản đơn nhằm tuyên truyền cho chính trị. Nghị quyết chỉ rõ: "Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người"[7].

Tiếp sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII ghi nhận sự phát triển trong nhận thức, trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, sự đổi mới quan trọng phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt, lần đầu đưa khái niệm: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội"[8]. Đồng thời, Nghị quyết cũng khẳng định: "Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"[9].

Tiếp tục tinh thần này, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996) đã đưa việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thành một trong 10 định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"[10]. Ở giai đoạn này, tư duy của nhân loại về văn hóa cũng đã có những nhận thức mới, thể hiện trong quan điểm của UNESCO về "Thập kỷ phát triển văn hóa" (1987-1996). Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và một số lĩnh vực khác. Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp Trung ương, khoá VIII (tháng 12-1996) khẳng định: "Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội"[11]. Chính trên cơ sở đó mà vào ngày 16- 7-1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá VIII đã ban hành Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

 Trong quá trình chuẩn bị Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về văn hóa, Đảng ta đã kế thừa và phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa và tư tưởng Hồ Chí Minh về "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Quan niệm "văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội..." vừa là kết tinh những giá trị truyền thống của cha ông, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa cập nhật tư duy mới của nhân loại, mà đại diện là tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc. Hội nghị đã tập trung thảo luận, nêu quan điểm lãnh đạo các vấn đề văn hóa (gồm văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, tư tưởng, lối sống, đạo đức...). Trên cơ sở tổng kết và đánh giá thực trạng văn hóa nước ta, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ lâu dài và những nhiệm vụ cấp bách đến năm 2000, cùng với 3 nhóm giải pháp lớn cho toàn bộ quá trình xây dựng và phát triển văn hóa. Đây là một nghị quyết chuyên đề sâu sắc và toàn diện, có ý nghĩa chiến lược lâu dài về văn hóa của Đảng ta sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. 

Điểm mới trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương khóa, VIII là việc xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa không phải là một hoạt động riêng biệt có tính chất ngành nghề (ngành văn hóa - thông tin...), không phải là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, chỉ là văn nghệ,... Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh, cốt cách của dân tộc được thể hiện qua truyền thống văn hóa dân tộchệ giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa truyền thống văn hóa được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng, dân tộc, được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế hệ,... trở thành nền tảng tinh thần của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã hội. Các bộ phận cơ bản nhất cấu thành nền văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội là: tư tưởng, đạo đức, lối sống; học thuật; nghệ thuật; thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa; thể chế và thiết chế văn hóa, v.v..

Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII và các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tiếp theo nhất quán hơn trong việc định vị văn hóa, văn hóa được đặt đúng vị trí là một trong những trụ cột của phát triển. Nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa có tiến bộ, ngày càng được nâng lên đáng kể trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiến thức, tư duy về văn hóa có bước phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII đánh dấu sự đổi mới toàn diện tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta, tạo ra một bước ngoặt trong tư duy lý luận về văn hóa và vai trò của văn hóa. Đây là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng về văn hóa trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nghị quyết chỉ rõ 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xâv dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa nước ta mang tính chất chiến lược lâu dài: "1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; 2. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; 4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; 5. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng"[12].

Đồng thời, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII còn nêu rõ quan điểm vì sao xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: "Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững"[13]. Quan điểm này cho thấy, Đảng ta khi xem xét văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội chính là xem văn hóa là cơ sở mà trên đó các nhân tố khác của đời sống xã hội được triển khai, được thực hiện tạo thành sự vận động và phát triển của xã hội. Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội thực chất là Đảng ta muốn khẳng định nền móng căn bản hình thành đời sống tinh thần, văn hóa mang tính quy định nằm sâu trong cấu trúc của mỗi xã hội, nó có khả năng quy định chiều hướng vận động của các cộng đồng, nó xây dựng năng lực và phẩm chất của con người trong phát triển xã hội.

 

Du khác về thăm quê Bác ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An

 

Đến Đại đại biểu toàn quốc lần thứ IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa tiếp tục được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII; đồng thời nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hóa trong lịch sử phát triển của dân tộc ta; khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm, tư tưởng nêu trong Nghị quyết Hội nghị  lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương năm, khóa VIII trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Nghị quyết nhấn mạnh đó là tầm cao, chiều sâu của sự phát triển của dân tộc, khẳng định và làm rõ vị trí của văn hóa trong đời sống dân tộc, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: "Các chính sách về văn hóa của Đảng ta thể hiện quan điểm: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu"[14]. Kết luận của Hội nghị Trung ương mười khoá IX đã tiến thêm một bước khi xác định: Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ "phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội"..."[15], tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.

Từ Kết luận của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX đến các văn kiện, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, Đảng ta tiếp tục xác lập vị trị của văn hóa là một trong ba bộ phận (kinh tế, xây dựng Đảng, văn hóa) hợp thành sự phát triển bền vững và toàn diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội"[16]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung, khóa XI của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội"[17].

Như vậy, Kết luận Hội nghị Trung ương 10 của Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 10 của Ban Chấp hành Trung ương, khóa IX, Đảng ta không chỉ tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn chỉ rõ văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững của đất nước, văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị, xã hội. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng ta về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, là bước phát triển mới trong lý luận của Đảng về vai trò to lớn, quan trọng của văn hóa trong phát triển bền vững; là sự nhạy bén của tư duy, nhận thức về các vấn đề lớn thời đại; là định hướng phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa ở nước ta theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

2. Sự phát triển lý luận của Đảng về vai trò "văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội"

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Văn hóa luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc nhất của cách mạng. Tuy nhiên, trước đổi mới, do bị chi phối bởi điều kiện khách quan, nên nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước của Đảng ta chưa đầy đủ và còn có những hạn chế nhất định.

Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta dần đi tới những nhận thức mới, quan điểm mới về vai trò của văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước ngày càng đúng đắn và đầy đủ. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hóa, đối với con người thực chất là trở về tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, là cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hóa của Đảng. Tuy nhiên, trong các văn kiện quan trọng của Đảng, mục tiêu của nền văn hóa chưa được nêu rõ thành mục riêng, thường là đặt trong mục tiêu lớn của đất nước là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nêu mục tiêu chung của đất nước, trong đó có văn hóa là: "... xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc"[18]. Tiếp tục tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Hội nghị lần thứ  tư, Ban chấp hành Trung ương, khóa VII tiếp tục khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội"[19]. Nội dung trên đây nói lên quan niệm của Đảng ta về văn hóa phải được xét trên hai phương diện: vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển nhằm: "... góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh"[20].

Từ Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ, khóa VII, khi thông qua đường lối tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, khi đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta tiếp tục khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, mọi hoạt động của văn hóa, văn nghệ đều nhằm xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ: "Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội"[21]. Vấn đề này đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định một cách đúng đắn trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương  khóa VIII: "Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển"[22].

Như vậy, có thể khẳng định, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII là văn kiện xác định rõ hơn về vai trò động lực của văn hóa, vì vậy có thể xem đó là bước đột phá mạnh mẽ, bật dậy những vấn đề cốt tử, làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ về con đường phát triển đi lên xã hội chủ nghĩa, tạo được sự vững tin hơn trong cán bộ và quần chúng nhân dân về những quyết sách của Đảng trên con đường hội nhập, phát triển cùng thế giới. Sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết  Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp Trung ương,  khóa VIII có thể xem là một dấu mốc son trong quan điểm của Đảng về văn hóa của thời kỳ đổi mới.

 

Chùa Giáng, Phú Xuyên, Hà Nội,

 

Quan điểm trên tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định lại và đặt ra cho vấn đề phát triển nguồn lực con người ở nước ta nhiều nhiệm vụ to lớn, mới mẻ liên quan đến nhiều lĩnh vực. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,... Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,..."[23]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế[24]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua đã bổ sung, phát triển và làm rõ hơn vai trò là mục tiêu và động lực của văn hóa. Theo đó, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội, mà còn thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quóc lần thứ XI của Đảng viết: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển"[25].

Tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI chỉ rõ, văn hóa và con người không tách rời nhau mà luôn thống nhất với nhau, mục tiêu phát triển văn hóa là vì con người và xây dựng con người là để phát triển văn hóa. Văn kiện Hội nghị Trung ương chín, khóa XI chỉ rõ: "Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"[26].

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc quan niệm về văn hóa và vai trò của văn hóa trong thời kỳ phát triển mới, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chính Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI, Đảng ta đã hình thành mới 2 quan điểm chỉ đạo rất đặc sắc - đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta, đó là quan điểm: "Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo"[27] và quan điểm: "Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế"[28]. Tiếp nối tư trưởng trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) của Đảng khẳng định: "Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh""[29]. Đặc biệt, Đại hội nhấn mạnh: "Xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[30].

Những luận điểm trên có tính bao trùm, xuyên suốt hàm chứa phản ánh sự phát triển lý luận của Đảng ta về nền văn hóa mà chúng ta đang tiến hành xây dựng. Nếu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương, khoá VIII của Đảng mới chỉ dừng lại ở luận điểm: "xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", nay luận điểm mới của Đảng đã có sự mở rộng, gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người, mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là mục tiêu xây dựng con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là chủ thể của sự phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước với quyền làm chủ của nhân dân, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người Việt Nam hội tụ đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp của cái chân, cái thiện, cái mỹ, mang đậm nét đẹp truyền thống cốt cách con người Việt Nam, thống nhất với những phẩm chất của con người mới xã hội chủ nghĩa giàu tính nhân văn, đậm chất dân chủ, đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Như vậy, có thể thấy rằng, sự phát triển lý luận của Đảng ta về văn hóa nói chung và vai trò của văn hóa nói riêng là một quá trình. Quá trình đó đi từ nhận thức chưa đầy đủ đến đầy đủ và ngày càng đúng đắn, toàn diện và sâu sắc về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Khẳng định vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội, là sự bổ sung, phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta về văn hóa thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Đây là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc, đã thực sự phát huy tác dụng trong đời sống nhân dân, tạo được ý thức sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò và sức mạnh của văn hóa đối với sự phát triển đất nước.

Sự phân chia ra từng nội dung cụ thể vai trò là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực của văn hóa chỉ là để nhằm làm rõ hơn sự phát triển lý luận của Đảng ta chứa đựng trong từng nội dung ấy, thực chất nó chỉ là một, bao hàm tư tưởng tổng quát nhất của Đảng, đó là sự xác định vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát triển của xã hội. Với tính cách nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa là cái không thể coi là hàng thứ yếu, nó là nhân tố trực tiếp hình thành nhân cách con người, hướng dẫn nhu cầu chân chính cho con người, đồng thời là động lực mạnh mẽ khơi dậy giá trị khiến cho con người hành động hướng tới chân - thiện - mỹ. Còn với tính cách là động lực của sự phát triển của xã hội, thì động lực văn hóa chỉ có thể có khi biết hướng đến mục tiêu vì sự phát triển con người. Đây là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Mục tiêu xác định đúng đắn mới tạo ra động lực, có động lực mới thúc đẩy điều kiện thực hiện mục tiêu. Xa rời một trong hai nội dung ấy, văn hóa không còn ý nghĩa và không thể thực hiện. Do đó, nghiên cứu và vận dụng quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa cần đặt nó trong tính chỉnh thể./.

 

PGS, TS Phan Trọng Hào

Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

 

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 513.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 62.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 479.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb CTQG, H.  2010, tr. 127.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 479.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 480.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, tr. 479.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 513.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 516.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 110.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 46.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55 -58.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 55.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 35

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 283.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 213.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 48.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 154.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 513.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 515 – 516.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,  1996, tr. 110 – 111.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 114.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.  75 -76.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 46 - 47.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48 - 49.

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 49.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 126.

[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 128.

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết