Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Sự phát triển về nhận thức và thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua

Ngày phát hành: 18/05/2019 Lượt xem 10811

Ở nước ta, dân chủ là một trong những vấn đề chính trị - xã hội đặc biệt quan trọng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”; rằng, phải làm sao cho người dân có quyền làm chủ, có điều kiện và biết làm chủ, cũng như được hưởng quyền làm chủ.

 

 

1. Sự phát triển về nhận thức

Thuật ngữ dân chủ xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp với nghĩa là “quyền lực của nhân dân” (dimokratia), quyền được tham gia vào các hoạt động xã hội. 

Ngày nay, dân chủ trước hết được xem xét với tư cách một hình thức tổ chức nhà nước, là khái niệm chỉ tính chất mối quan hệ giữa cộng đồng dân cư trong một quốc gia dân tộc với nhà nước. Nhìn nhận dân chủ với ý nghĩa một hình thức nhà nước, V.I.Lênin khẳng định rằng, “chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác”[1]. Khác với các hình thức nhà nước khác, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số dân cư trong xã hội, quyền bình đẳng của mọi công dân và tính tối cao của pháp luật được thừa nhận và khẳng định. Tất cả các cơ quan quyền lực của nhà nước do dân bầu cử nên. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản - dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Ngoài ý nghĩa một hình thức tổ chức nhà nước, dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội, là kết quả do cuộc đấu tranh của nhân dân. Theo đó, dân chủ được thể hiện như một lý tưởng nhân đạo, một giá trị nhân văn của con người. Mặt khác, trong xã hội hiện đại, dân chủ còn được nhìn nhận như là điều kiện tiên quyết cho sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Đó là sự hình thành thái độ, tính tích cực chính trị, sự chủ động, sáng tạo và tự giác của nhân dân trong việc tham gia vào các quá trình chính trị thực tiễn.

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một hiện tượng lịch sử, nó luôn biến đổi dưới những hình thức khác nhau trong điều kiện lịch sử của các hình thái kinh tế - xã hội; từ dân chủ chủ nô tới dân chủ tư sản rồi đến dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) là những bước tiến, những trình độ phát triển của dân chủ theo hướng ngày càng cao hơn. Mặc dù dân chủ tư sản được xem là một bước tiến bộ so với chế độ chuyên chế phong kiến, song đó cũng chỉ là dân chủ đối với một thiểu số trong xã hội - giai cấp tư sản. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, trong giai đoạn đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân chủ”. Theo các ông, chỉ bằng cách giành được chính quyền nhà nước vào tay mình thì giai cấp vô sản mới có thể xây dựng và phát huy được nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là đưa nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trở thành người chủ xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất sở hữu mọi quyền lực. Hay nói cách khác, nhân dân là người chủ sở hữu mọi quyền lực nhà nước.

Kế thừa và phát triển tư tưởng sâu sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân chủ, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin đã làm sáng tỏ quá trình vận động, phát triển mang tính biện chứng của dân chủ, chỉ rõ “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”[2]. Với ý nghĩa một hình thức nhà nước, dân chủ ra đời, tồn tại và tiêu vong cùng với sự ra đời, tồn tại, tiêu vong của nhà nước. Theo V.I.Lênin, “chế độ dân chủ cũng là một hình thức nhà nước và sẽ phải mất đi khi nhà nước tiêu vong, nhưng điều đó chỉ xảy ra khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và đượccủng cố, quá độ lên chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn”[3]. Cần hiểu đúng rằng, dân chủ với tư cách một phạm trù chính trị sẽ tiêu vong, nhưng với tư cách một giá trị phổ biến toàn nhân loại thì dân chủ vẫn tồn tại ngay cả khi nhà nước đã tiêu vong.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dân chủ phát triển đến một trình độ mới với nội dung cơ bản là chính quyền thuộc về nhân dân, mọi quyền lực đều là của nhân dân. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội là xã hội mới về chất so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đó, được xây dựng trên cơ sở nền kinh tế phát triển cao và có khả năng giải phóng sức sản xuất xã hội khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; do vậy, nó có khả năng bảo đảm cho sự tiến bộ xã hội cũng như sự phát triển toàn diện của con người.

Dân chủ, nói một cách ngắn gọn, là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật. Ở nước ta, dân chủ là một trong những vấn đề chính trị - xã hội đặc biệt quan trọng, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”; rằng, phải làm sao cho người dân có quyền làm chủ, có điều kiện và biết làm chủ, cũng như được hưởng quyền làm chủ.

Kế thừa và vận dụng quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, trong những năm trước khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khi xác định dân chủ trước hết là quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan niệm: “Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nội dung làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: Làm chủ về chính trị, kinh tế, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở. Quyền làm chủ tập thể bao gồm tự do chân chính của cá nhân”[4]. Đồng thời, khẳng định “phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”, coi việc “xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” là một trong những “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[5].

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng trong nhận thức lý luận về dân chủ và thực hiện dân chủ.

Tại Đại hội VI - Đại hội mở đầu của sự nghiệp đổi mới, khi nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển đất nước, Đảng ta đã khẳng định, “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”[6], coi “làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống”[7].

Tại Đại hội VII, khi thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), Đảng ta đã đưa ra một quan niệm mới về dân chủ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm”[8]. Có thể khẳng định rằng, luận điểm trên thể hiện bước tiến mới trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa và cũng từ đây, Đảng không sử dụng các khái niệm “làm chủ tập thể”, “chế độ làm chủ tập thể” khi nói về dân chủ.

Vấn đề dân chủ và phát huy dân chủ được Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và thực hiện đầy đủ hơn. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu, phát triển những giá trị trong tư tưởng về dân chủ của nhân loại, đặc biệt là quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là một hình thức chính trị - nhà nước thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực và điều đó được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Chế độ dân chủ ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là dân chủ của đa số, vì đa số và người lao động; là chế độ mà ở đó, nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[10], được pháp luật bảo đảm; là sự thể hiện quyền lực của nhân dân, tập trung và “thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[11]

Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa – dân chủ gắn liền với quyền làm chủ của nhân dân, dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, do đó, là một trong những mục tiêu lớn, một nội dung hết sức quan trọng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thực tiễn xã hội ta hiện nay cho thấy, mọi quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mọi người dân đều trực tiếp hay gián tiếp đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến của mình cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và hoạt động hiệu quả. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong xã hội; là phương châm hành động của người dân trong xây dựng hệ thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân và chăm lo cho nhân dân.

Đặc biệt, Đảng ta cũng đưa ra một quan điểm khá mới về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên khía cạnh sự phản biện xã hội, khẳng định cần phải sớm hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và của mỗi người dân trong việc quản lý và tổ chức đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật[12].

Như vậy, cùng với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những phát triển mới trong nhận thức về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ được xem xét trên nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị; dân chủ là một giá trị; dân chủ là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

2. Kết quả đạt được

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã và đang xây dựng có đặc trưng phổ quát là do nhân dân làm chủ; nói cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực chất của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội và nhân dân nhằm huy động triệt để mọi nguồn lực để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con người.

 

 

Sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi từ mô hình kinh tế quan liêu bao cấp sang xây dựng và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện một bước tiến quan trọng là tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ rất lâu dài và hết sức trọng yếu, hướng tới mục tiêu bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Việc thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong hơn 30 năm qua được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội, cả trong Đảng lẫn trong xã hội.

Thứ nhất, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế.

Kinh tế là lĩnh vực quan trọng, chi phối mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội; vì vậy, thực hiện dân chủ trong kinh tế là cơ sở để thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực khác. Như đã biết, bắt đầu từ Đại hội VI (1986), với đường lối đổi mới của Đảng, nước ta đã từng bước chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và các hình thức phân phối đa dạng. Các thành phần kinh tế được thừa nhận tồn tại khách quan, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, đều là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp và các bộ luật liên quan tạo cơ sở pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng, như Luật Đầu tư, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai... Việc các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất, kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm, được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, kinh doanh..., đã tạo nên một động lực to lớn thúc đẩy các thành phần kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung phát triển mạnh mẽ, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, trở thành nước có thu nhập trung bình. Nói cách khác, việc thực hiện dân chủ trong kinh tế đã tạo nên diện mạo mới của nền kinh tế đất nước thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định trong nhiều năm liền, được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước có nền kinh tế năng động và đầy triển vọng phát triển.

Thực hành dân chủ trước hết là vấn đề sở hữu, trong đó trọng tâm nhất là sở hữu về kinh tế. Với đường lối đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khách quan của các thành phần kinh tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý, chính sách, cơ chế..., cho các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân phát triển. Đại hội XII của Đảng đã chỉ đạo phát triển đồng bộ các loại thị trường chủ yếu – môi trường thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Đảng và Nhà nước đã chủ trương nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà nước – một công cụ pháp lý quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong quá trình làm chủ kinh tế; trong đó, đặc biệt quan tâm xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển. Nhà nước kiến tạo phát triển là một mô hình quản lý nhà nước với chức năng chủ yếu là đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường hoạt động giám sát nhằm kịp thời phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm sự ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô.

Thứ hai, dân chủ trong lĩnh vực chính trị.

Hiện nay, ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Chế độ một đảng lãnh đạo với nhiều đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội là phù hợp với điều kiện lịch sử và tình hình đất nước, bảo đảm sự ổn định chính trị làm cơ sở cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước. Một đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền hoàn toàn không ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ. Thực tiễn cho thấy, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, dân chủ nói chung và dân chủ trong lĩnh vực chính trị nói riêng ở nước ta đã được thực hiện ngày càng tốt hơn và có những bước tiến nổi bật. Các tổ chức trong hệ thống chính trị đã và đang tiếp tục được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động; nhờ vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy. Đảng luôn được đổi mới, chỉnh đốn theo hướng ngày càng trong sạch, vững mạnh; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và nội bộ Đảng thường xuyên được đổi mới. Công tác cán bộ được coi trọng từ khâu phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, luân chuyển, quy hoạch và sử dụng theo hướng ngày càng chú ý đến chất lượng, hiệu quả, bảo đảm tính công khai, minh bạch... Thực hiện bầu cử có số dư, ban hành Quy chế chất vấn trong Đảng. Sự tham gia của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên vào việc hoạch định, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ngày càng rộng rãi...

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Hiến pháp 2013 được ban hành với nhiều điểm mới được sửa đổi, bổ sung liên quan đến quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan tới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các thành phần kinh tế..., được cụ thể hóa và thể chế hóa. Hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ, trong đó việc chất vấn và trả lời chất vấn được tăng cường, công tác bầu cử được cải tiến, sự tham gia của nhân dân vào việc góp ý các dự án luật, chính sách của Đảng và Nhà nước được coi trọng. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới; vai trò giám sát và phản biện xã hội được coi trọng. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp) được coi trọng. Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cũng như Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt những kết quả quan trọng. Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả thực hiện Kết luận số 120 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tổ chức ngày 16/7/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội được mở rộng hơn.

Thứ ba, dân chủ trong lĩnh vực văn hóa và xã hội.

Trong công cuộc đổi mới, Nhà nước đã bảo đảm cho nhân dân các quyền cơ bản, như quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền, quyền tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa; quyền thảo luận và giám sát các dự án về an sinh xã hội, về xóa đói giảm nghèo... Nhà nước đã xây dựng hành lang pháp lý làm cơ sở cho việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực văn hóa và xã hội thông qua việc ban hành một hệ thống các bộ luật liên quan, như Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Sở hữu trí tuệ... Nhờ vậy, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực văn hóa và xã hội được tôn trọng, bảo đảm và phát huy. Đặc biệt, dân chủ trong hoạt động lý luận khoa học đã có bước tiến, tạo điều kiện cho các nhà khoa học tranh luận, thảo luận và phát huy năng lực sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

3. Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực thi dân chủ trên thực tế vẫn còn những thiếu sót, hạn chế như quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn bị vi phạm, việc thực hiện dân chủ còn mang tính hình thức... Trong Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: Thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật còn nhiều bất cập, trên thực tế đang tồn tại tình trạng “vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ cương”. Trong xã hội còn không ít biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; thực hiện pháp luật, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm, việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức. Trong Đảng, tình trạng vi phạm việc thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách còn xảy ra ở một số nơi. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm của người đứng đầu và của tổ chức đảng, chính quyền quy định chưa rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm. Còn thiếu các chế tài bảo đảm thực thi dân chủ, giữ vững kỷ cương”[13].

Những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan:

Một là, dân chủ do trình độ phát triển kinh tế quy định. Ở nước ta, trình độ phát triển kinh tế về cơ bản còn thấp kém, thể chế kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ và phát triển đầy đủ..., do đó làm hạn chế sự phát triển của dân chủ trong xã hội.

Hai là, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua dân chủ tư sản. Vì vậy, ý thức và năng lực thực hiện dân chủ của nhân dân còn hạn chế.

Ba là, hệ thống pháp luật của nước ta còn thiếu và chưa đồng bộ, còn thiếu vắng các cơ chế, quy chế, thiết chế để thực hiện dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, nhiều cấp bộ đảng, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên chưa thực sự là tấm gương về dân chủ trong xã hội[14].

Trước tình hình đó, quan điểm của Đảng là tiếp tục xây dựng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. )

Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đặc biệt, xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của dân chủ, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, Đảng ta đã xác định mở rộng dân chủ là một trong những quan điểm phát triển; đồng thời, khẳng định phải phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong việc hoàn thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội; nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đặc biệt là “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả cáclĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân”[15].

 

GS.TS Phạm Văn Đức

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

 

                                      



[1]V.I.Lênin. Toàn tập, t.3. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.101.

[2] V.I.Lênin. Toàn tập, t.33. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.206.

[3] V.I.Lênin. Sđd., t.27, tr.327.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1997, tr.19-20.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.47.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.28.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.117.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.327

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.  Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.84 - 85.

[10] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 10 - 12 - 2013, tr.3.

[11]Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 85.

[12]Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.145-146.

[13]Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.151.

 

[14] Xem: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2016/37861/Thuc-hanh-va-phat-huy-dan-chu-qua-30-nam-doi-moi.aspx.

[15]Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 170.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết