Thứ Năm, ngày 18 tháng 04 năm 2024

Thực tiễn và kinh nghiệm giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày phát hành: 10/12/2018 Lượt xem 15505


Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài nhằm bồi đắp lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin khoa học, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn. Chính nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, trong gần 90 năm qua, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh. Đồng thời, cũng do làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã trở thành lực lượng nòng cốt, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường quốc phòng- an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:” Công tác xây dựng Đảng về chính trị trước tình hình mới tiếp tục được coi trọng. Kiên định Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội. Coi trọng giũ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động của Đảng…Chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội…” 1

I. Kết quả, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên thời gian qua

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trực tiếp ban hành nhiều văn bản, quy định quan trọng về giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên.

Xác định xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất và uy tín ngang tầm nhiệm vụ luôn có vai trò quyết định tới sự thành bại của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, trong đội ngũ cán bộ thì đảng viên là lực lượng nòng cốt, tiên phong, đi đầu. Theo đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng luôn được đặt lên hàng đầu, có sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, qua các giai đoạn cách mạng, đặc biệt từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.

Cùng với việc ban hành Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, nhiều văn bản quan trọng về giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên đã được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành, như Quy định về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Nghị quyết về Công tác tư tưởng và lý luận trong tình hình mới; Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; về bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; các nghị quyết về xây dựng Đảng; Quy định về chế độ cập nhật kiến thức đối với cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn trao đổi, đối thoại với các cá nhân có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng; Kết luận về đổi mới và nâng cao chất lượng dậy và học các môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân…

Thứ hai, công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân được quan tâm thường xuyên, nhất là trong các cơ quan truyền thông đại chúng.

 Hệ thống các cơ quan báo chí, xuất bản được quy hoạch, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu với tất cả các loại hình báo chí (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử), đặc biệt là báo điện tử phát triển mạnh trong những năm gần đây. Hiện nay Việt Nam có gần 850 cơ quan báo chí, khoảng 60 nhà xuất bản, gần 20 nghìn phóng viên được cấp thẻ, với trình độ, tính chuyên nghiệp ngày càng cao. Hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên phát triển và hoạt động ở tất cả các vùng miền trong cả nước, cùng với hệ thống loa truyền thanh, sách, báo, tờ rơi, tài liệu nội bộ, một số loại báo, tạp chí được phát miễn phí cho cán bộ, đảng viên đặc thù, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Các thông tin về thời sự, tình hình trong nước và thế giới, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là các vấn đề liên quan đến tư tưởng, chính trị được tập trung tuyên truyền theo chiều sâu; nội dung và phương thức tuyên truyền phù hợp với các nhóm đối tượng. Công tác tuyên truyền, giáo dục không ngừng được đổi mới cả về nội dung, phương thức, bám sát thực tiễn cơ sở, nhanh nhạy, kịp thời, sinh động và nâng cao tính thuyết phục. Bên cạnh việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, việc quan tâm tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên trong hệ thống các trường đào tạo, các cơ quan lý luận của Đảng, Nhà nước, hệ thống giáo dục quốc dân, các đoàn thể chính trị, xã hội cũng thường xuyên được coi trọng, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị dậy và học từng bước đầu tư mới, hiện đại .

Thứ ba, chất lượng, hiệu quả giáo dục chính trị, tư tưởng không ngừng được nâng lên, ý thức rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên được đặc biệt coi trọng.

Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai trên thực tế các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên đã có tác dụng thiết thực, tạo điều kiện đổi mới, nâng cao chất lượng, đưa hoạt động này đi vào nề nếp. Trong những nhiệm kỳ vừa qua, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên đã được triển khai sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Ở Việt Nam, việc học tập các môn lý luận chính trị về chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dậy ở tất cả các cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị- xã hội. Các chương trình được biên soạn phù hợp với từng đối tượng, như chương trình bồi dưỡng cán bộ, đảng viên ở cơ sở thực hiện tại hơn 600 trung tâm bồi dưỡng cấp quận, huyện trong cả nước, chương trình bồi dưỡng dành cho 6 đoàn thể chính trị, xã hội. Chương trình cập nhật kiến thức cho cán bộ trung, cao cấp… Trong hệ thống giáo dục quốc dân, đây là môn thi bắt buộc trước khi kết thúc cấp học, bậc học của khoảng gần 450 trường đại học và cao đẳng trong cả nước; đối với cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, đây là yêu cầu cơ bản để đánh giá nhận thức khi tuyển dụng, thi nâng ngạch bậc cán bộ, công chức. Cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý đều phải thực hiện chương trình cập nhật kiến thức, cán bộ thuộc diện quy hoạch sẽ học các lớp dự nguồn ở Trung ương hoặc do địa phương tổ chức. Nhiệm kỳ Đại hội XI, ở Trung ương đã tổ chức 6 lớp cán bộ dự nguồn, hầu hết các địa phương đều tổ chức lợp cán bộ dự nguồn cấp tỉnh, thành phố. Trong một số nhiệm kỳ gần đây, các đồng chí Ủy viên TW Đảng, Ban Bí thư, Bộ Chính trị thường xuyên nghe các chuyên đề chuyên sâu về chính trị, tư tưởng và một số vấn đề quan trọng khác…

Thực tiễn công tác tổ chức, triển khai việc học tập, quán triệt, tuyên truyền các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng sau các kỳ đại hội, hội nghị trung ương cho thấy, tác dụng to lớn tới nhận thức chính trị, tư tưởng và tổ chức thực hiện đối với cán bộ, đảng viên. Nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ đại hội được tổ chức học tập, quán triệt, viết thu hoạch, thảo luận, xây dựng chương trình hành động thực hiện, được đưa vào sinh hoạt chi bộ, một số nội dung được cụ thể hóa theo các đối tượng trực tiếp liên quan, đưa vào các chương trình tọa đàm, trao đổi chính sách, các chuyên trang, chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ở Việt Nam, tất cả cán bộ, đảng viên đang công tác trong hệ thống chính trị đều phải học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, đây là yêu cầu được quy định trong các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước, là một tiêu chí quan trọng để đánh giá phẩm chất, năng lực cán bộ.

Việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một biện pháp quan trọng trong giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên. Tấm gương của Người về đạo đức, phong cách, về khát vọng độc lập, tự do, dân giầu nước mạnh, về chiều sâu văn hóa, có sự ảnh hưởng to lớn tới mỗi người dân Việt Nam và nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình trên thế giới – Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa của thế giới. 10 chuyên đề tổng hợp những tư tưởng nổi tiếng của Người được tổ chức học tập, quán triệt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kết hợp những tài liệu giới thiệu bài nói, viết, việc làm của Người qua các giai đoạn lịch sử, thực sự có sức cảm hóa, lay động lòng người. Từ học tập chuyển sang làm theo, từ cuộc vận động chuyển sang làm thường xuyên, đi vào chiều sâu, đề cao sự nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu. Qua đó, kết hợp công tác giáo dục chính trị, tư tưởng với việc đề cao tự rèn luyện, nói đi đôi với làm, “ trên trước, dưới sau”, “trong trước, ngoài sau”, lấy việc giáo dục truyền thống, học tập và làm theo Bác để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong điều kiện mới…

Thứ tư, coi trọng đấu tranh chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ đi đôi với đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Ở Việt Nam, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên không chỉ quan tâm tới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về lý luận chính trị, thông tin thời sự, chính sách, mà còn coi trọng đấu tranh phê phán những quan điểm, nhận thức sai trái- nguyên nhân chủ yếu dẫn tới “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, đấu tranh có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Đối với cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước Việt Nam có nhiều quy định cụ thể về ý thức chính trị của cá nhân, gia đình, ban hành Quy định 19 điều đảng viên không được làm, 27 biểu hiện suy thoái, coi việc lười học tập lý luận chính trị là một trong những biểu hiện suy thoái, ban hành hướng dẫn việc trao đổi, đối thoại đối với các cá nhân có quan điểm khác với chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước….Xử lý nghiêm các bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực vi phạm đạo đức, lối sống, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã thi hành kỷ luật 56 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 11 đồng chí là ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, khai trừ 01 đồng chí Ủy viên TW Đảng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, trong 5 năm qua, đã kỷ luật Đảng hơn 4300 cán bộ, đảng viên do tham nhũng, vi phạm pháp luật.

Trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bên cạnh việc ban hành nhiều văn bản quan trọng để chỉ đạo, định hướng, đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp đấu tranh trong từng thời kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam  quan tâm chỉ đạo, thành lập các bộ phận chuyên trách. Ban chỉ đạo đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các vấn đề tư tưởng, lý luận và văn học nghệ thuật từ trung ương đến địa phương, các cơ quan quốc phòng, công an đều có bộ phận chuyên trách, kể cả việc sử dụng công nghệ cao. Quan tâm công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhận diện âm mưu, thủ đoạn” diễn biến hòa bình”. Cấp ủy các cấp thường xuyên được cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, trách nhiệm lãnh đạo trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Các cơ quan lý luận, truyền thông đại chúng coi trọng việc tổ chức lực lượng, cung cấp luận cứ, tổ chức viết tin, bài đấu tranh trên các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả mạng xã hội, đem lại những kết quả tích cực.

Thứ năm, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nhờ sự quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có sự trưởng thành về mọi mặt, đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã hình thành đầy đủ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, khoa học, chuyên môn nghiệp vụ, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp.. có lập trường tư tưởng vững vàng, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp có phẩm chất, năng lực và uy tín. Cán bộ cấp chiến lược luôn kiên định chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tầm nhìn chiến lược. Kết quả này một phần quan trọng nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên từ nhiều nhiệm kỳ vừa qua.

Về những hạn chế, đó là nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa cao; nội dung, chương trình tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn trùng lắp và dàn trải, việc cập nhật thông tin, kiến thức mới chưa theo kịp đòi hỏi của cuộc sống; phương pháp giảng dậy hiện đại chưa thực hiện đều ở các cấp học, bậc học, các chương trình đào tạo, bồi dưỡng; sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch cùng với những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế- xã hội, một số điểm nóng, bức xúc của người dân chậm được giải quyết làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên.  

Nguyên nhân của những kết quả trên trước hết là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng từ trung ương đến địa phương, sự nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng; đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện, thử thách, qua nhiều giai đoạn cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; công cuộc đổi mới đất nước cùng với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đòi hỏi cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao trình độ chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước.

Từ thực tiễn Việt Nam trong quá trình phát triển có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, góp phần vào thành công của đất nước như sau:

-Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng cũng phải kiên định Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo, đề ra đường lối, chủ trương, chính sách sát hợp với thực tiễn đất nước; không ngừng bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, kiên quyết đấu tranh, phê phán giáo điều, cơ hội, xét lại; phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch.

- Thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, coi trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; quan tâm đúng mức công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; nắm vững tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên, kịp thời định hướng tư tưởng, cung cấp thông tin.

- Đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng, lý luận trực tiếp là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp đối tượng. Đa dạng hóa các hình thức học tập đi đôi với tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại, đầu tư cơ sở vật chất thích hợp.

- Coi trọng ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng đi đôi với hoàn thiện văn bản pháp luật, quy định về quản lý cán bộ, đảng viên.

- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên phải làm thường xuyên, liên tục, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của cấp ủy đảng, người đứng đầu cơ quan đơn vị và ý thức tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên.

2. Bối cảnh hiện nay và một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trước yêu cầu mới

Tình hình thế giới hiện nay và thời gian tới tiếp tục có những thay đổi nhanh chóng, khó lường, thời cơ và thách thức đan xen, tuy nhiên nổi lên một số vấn đề đáng quan tâm. Đó là, chủ nghĩa cường quyền áp đặt nước lớn, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy và thực dụng với các mức độ khác nhau, đang chi phối ở nhiều quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng lớn đến quan hệ quốc tế. Những điểm nóng về tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, khủng bố quốc tế, nguy cơ chiến tranh thương mại, bảo hộ mậu dịch, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống… đang thực sự đe dọa hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Tiến bộ về khoa học, công nghệ  có những bước đột phá mới, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đã làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, làm sâu sắc hơn quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia. Khu vực Đông Nam Á tiếp tục có bước phát triển mạnh mẽ, năng động, với vai trò trung tâm của khối ASEAN có ảnh hưởng càng tăng trên trường quốc tế, đang đứng trước nhiều thời cơ, thách thức mới trong quá trình xây dựng cộng đồng đoàn kết, ổn định, hòa bình và thịnh vượng…

 Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, sức mạnh tổng hợp, thế và lực của Việt Nam tăng lên rõ rệt, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao. Quá trình đổi mới kinh tế, đưa đất nước sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại tiếp tục được đẩy mạnh, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, xã hội ổn định. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt được tiến bộ và kết quả quan trọng, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng. Tuy nhiên, tình hình trong nước, bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, những yếu kém trong quản lý kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, phân hóa giầu nghèo, tồn tại một số điểm nóng, bức xúc xã hội, khiếu kiện về đất đai, môi trường chậm được giải quyết, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn diễn biến phức tạp; sự chống phá của các thế lực thù địch, nhất là sử dụng mạng xã hội, facebook, tác động của mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những diễn biến phức tạp về tình hình biển Đông… đòi hỏi công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên trong điều kiện mới phải được quan tâm hơn nữa, đổi mới cả về nội dung, phương thức thực hiện.

Từ tình hình trên, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung một số nhiệm vụ cơ bản như sau:

Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương, nhất là người đứng đầu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, thực hiện thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập lý luận chính trị trong điều kiện mới, chất lượng, trình độ nhận thức lý luận là phẩm chất cơ bản của chất lượng đội ngũ cán bộ. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải nêu gương về ý thức, thái độ học tập lý luận, coi đây là công việc thường xuyên, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong từng nhiệm kỳ đại hội Đảng, cấp ủy đảng, chính quyền phải xây dựng kế hoạch hàng năm, căn cứ theo từng đối tượng cán bộ, đảng viên để xây dựng nội dung, chương trình, loại hình tổ chức học tập phù hợp. Đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân, phát huy vai trò của tổ chức, chi bộ đảng trong giám sát, tổ chức thực hiện. Kết quả học tập là một tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, phù hợp với bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin, có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Bên cạnh các định hướng nghiên cứu lớn, quan trọng đã được nêu trong Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị, khóa XII về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, đã xác định những vấn đề trọng điểm cần nghiên cứu, làm rõ những nội dung căn bản, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lê nin, chỉ rõ những vấn đề cần bổ sung, phát triển, những nội dung cuộc sống đã vượt qua, đặc biệt dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, cách mạng 4.0, các yếu tố thời đại, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tổ chức tổng kết thực tiễn những mô hình hay, kinh nghiệm trong và ngoài nước, phát huy dân chủ, sáng tạo trong nghiên cứu lý luận chính trị và giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên một cách thiết thực, hiệu quả.

Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng theo hướng thiết thực, hiện đại, phù hợp đối tượng; hoàn thiện các văn bản quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tiêu chuẩn hóa đối với cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đổi mới dậy và học các môn lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang đảm bảo thiết thực, hiệu quả, cập nhật kiến thức mới, kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo tính sư phạm, khoa học, liên thông, tránh trùng lắp; phân loại chương trình chuyên và không chuyên. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dậy, ứng dụng công nghệ hiện đại, phát huy khả năng tự nghiên cứu, sáng tạo của người học. Chú trọng nâng cao trình độ, trau dồi bản lĩnh chính trị, rèn luyện phong cách, đạo đức cho giảng viên lý luận chính trị. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định chuẩn hóa về tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Thứ tư, quy hoạch lại hệ thống các trường đào tạo, cơ sở nghiên cứu vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, tránh phân tán, trùng lắp vừa tạo ra những trung tâm mạnh về từng lĩnh vực lý luận chính trị, đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, coi trọng đào tạo, bồi dưỡng các chuyên gia đầu đàn, tích cực mở rộng hợp tác quốc tế. Sớm hoàn thiện các tiêu chí, mô hình đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở nghiên cứu phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thường xuyên đánh giá, kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, đầu tư cơ sở vật chất, thu hút các nhà khoa học, cán bộ giỏi được đào tạo trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài về các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong nước. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và hoàn thiện quy trình đánh giá, nghiệm thu kết quả nghiên cứu.

Thứ năm, phát huy vai trò của hệ thống các cơ quan báo chí, truyền thông trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Sớm hoàn thiện quy hoạch các cơ quan báo chí theo Kết luận của Bộ Chính trị khóa XI, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, hướng tới các cơ quan báo chí đa phương tiện. Coi trọng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị cho lãnh đạo, phóng viên các cơ quan báo chí. Đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền các sự kiện chính trị, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp đối tượng, tăng tính hấp dẫn, thuyết phục. Thực hiện nghiêm các hình thức cung cấp thông tin, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng, an toàn và bảo mật thông tin theo quy định. Thí điểm một số hình thức đấu thầu, giao nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xuất bản về một số nội dung giáo dục tư tưởng, chính trị chuyên sâu, đặc thù, hiệu quả và phù hợp, nhất là khu vực vùng sâu, vùng xa.

Thứ sáu, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch. Nâng cao tính chủ động, phát hiện, dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là trên mạng xã hội, Facebook…chủ động cung cấp thông tin, kiện toàn lực lượng, đặc biệt là các bộ phận chuyên trách không gian mạng, đảm bảo nhanh nhậy, hiệu quả. Quán triệt quan điểm xây và chống trong phê phán quan điểm sai trái, thù địch với ngăn chặn đẩy lùi “ tự diễn biến, tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tập trung xử lý những điểm nóng, những bức xúc, nổi cộm; Sớm triển khai việc tổ chức thống nhất 3 ban chỉ đạo 94, 609 và 213, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ nhiệm vụ, nhất là phương tiện đấu tranh trên mạngvà bảo mật thông tin nội bộ.

 

PGS.TS Phạm Văn Linh

Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận TW

(Tham luận tại Hội thảo lý luận lần thứ tư giữa Đảng Cộng sản Cu-ba và Đảng Cộng sản Việt Nam)

 

 



1 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội-2016, trang 186).

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết