Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Vấn đề tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII

Ngày phát hành: 22/01/2021 Lượt xem 3465

 

Những năm gần đây, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu đã tác động mạnh mẽ, gây ra những tác động, thiệt hại to lớn đối với sự phát triển kinh tế, cuộc sống của nhân dân, ổn định và phát triển của mọi quốc gia, đe dọa sự sinh tồn của cả nhân loại; Liên hợp quốc đã có những chương trình toàn cầu về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; nước ta đang và sẽ là một trong những nước sẽ chịu tác động nghiêm trọng nhất của những yếu tố này. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu của nước ta đạt được những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân. Dự thảo các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cả trong Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội đều đã giành nhiều quan tâm hơn các Đại hội Đảng trước đây về vấn đề này, từ phần đánh giá tình hình, kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, 10 năm thực hiện Chiến lược 2011-2020 đến mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kế hoạch 5 năm, chiến lược 10 năm tới.

 

1. Trong đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước 2011-2020

- Về kết quả đạt được: Dự thảo Báo cáo chính trị đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII: hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu tiếp tục được hoàn thiện. Kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô. Công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát về môi trường được tăng cường, xử lý nghiêm một số vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Cơ bản bảo đảm cung cấp nước sạch, dịch vụ vệ sinh môi trường cho người dân. Chủ động thực hiện Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai đạt kết quả bước đầu[1]...

Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 đánh giá: Các nguồn lực tài nguyên từng bước được quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn, nhất là đất đai, khoáng sản; phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm, lãng phí, tham nhũng. Công tác phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, cải thiện chất lượng môi trường đạt được một số kết quả tích cực. Công tác bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ, phát triển rừng được quan tâm. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Năng lực và chất lượng dự báo thời tiết, cảnh báo thiên tai được nâng lên; nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai được triển khai tích cực và đạt nhiều kết quả. Đến năm 2020, 90% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch, 90,2% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 90%. Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 85%[2]...

- Về hạn chế, khuyết điểm: Dự thảo Báo cáo chính trị đánh giá: ý thức chấp hành pháp luật về quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo. Các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe, thiếu hiệu quả. Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế. Vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Chất lượng môi trường tiếp tục xuống cấp. Các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học tiếp tụ suy giảm. Thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng. Ngàng công nghiệp và dịch vụ môi trường, tái chế chất thải, xử lý rác thải chậm phát triển, còn lạc hậu[3]...

Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 đánh giá: Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, năng lực và nguồn lực về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai còn hạn chế. Khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả quản lý, sử dụng chưa cao, chưa theo nguyên tắc thị trường. Tình trạng ô nhiễm môi trường còn diễn biến phức tạp, chưa được kiểm soát hiệu quả, chất lượng môi trường ở nhiều nơi xuống cấp, có nơi đến mức báo động; xử lý một số cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng còn chậm. Tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển còn diễn biến phức tạp, xâm nhập mặn và phèn hóa tiếp tục diễn ra ở miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long[4]...

 

2. Trong dự báo tình hình, định hướng và chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và 10 năm 2021-2030

a. Về dự báo tình hình: Dự thảo các Báo cáo chính trị và Báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đều có nhiều dự báo về tình hình và tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng.

- Báo cáo chính trị có những dự báo trong 5 năm tới: “Những vấn đề toàn cầu, như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp”, “kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19”. Đối với nước ta, Báo cáo chính trị dự báo “biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước”, “Thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới”[5].

- Báo cáo chiến lược dự báo trong 10 năm tới: đối với thế giới “Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gia tăng, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, nhất là nguồn nước sông Mê Công, đặt ra nhiều thách thức lớn chưa từng có cho phát triển bền vững”, “Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, có khả năng kéo dài sang đến thập niên 20, làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới”. Đối với nước ta, Báo cáo chiến lược dự báo “Thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên, đất đai, nguồn nước, biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng nhanh, khốc liệt và khó lường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của người dân”, “Đặc biệt, dịch bệnh Covid-19 có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực, kéo dài đến những năm đầu của kỳ chiến lược”[6].

b. Về các chỉ tiêu: Trong Dự thảo các Báo cáo chính trị và Báo cáo chiến lược của Đại hội XIII, đều có một số chỉ tiêu về môi trường, tạo thành một trong ba nhóm chỉ tiêu lớn (kinh tế - xã hội - môi trường) của đất nước.

- Báo cáo chính trị đề ra các chỉ tiêu về môi trường của đất nước trong thời kỳ 5 năm 2021-2025, đến năm 2025: (1) tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100%, của dân cư nông thôn là 93-95%; (2) Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; (3) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn môi trường là 92%; (4) Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường quan trọng được xử lý đạt 100%; (5) Tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%. Quyết tâm phấn đấu đạt mục tiêu và chỉ tiêu cao nhất. Đồng thời, chuẩn bị các phương án để chủ động thích ứng với những biến động của tình hình[7].

- Báo cáo chiến lược đề ra các chỉ tiêu về môi trường của đất nước trong chiến lược 10 năm 2021-2030, đến năm 2030: cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu: (1) tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%. (2) Tỷ lệ chất thải nguy hại được tiêu hủy, xử lý đạt 98%, trong đó riêng chất thải y tế được xử lý đạt 100%, tỷ lệ xử lý và tái sử dụng nước thải ra môi trường lưu vực các sông đạt trên 70%;  (3) Tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%; (4) Giảm 9% lượng khí phát thải nhà kính; (5) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã đi vào hoạt động có nhà máy xử lý chất thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%, 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt chuẩn về môi trường; (6) Tỷ lệ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn sinh hoạt đạt trên 65%; (7) Tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.

c. Về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030

 - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIII đề ra 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó định hướng thứ sáu về lĩnh vực bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu có nhiều nội dung, như: quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, bền vững tài nguyên. Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh.

Trong định hướng thứ 12 “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn”, do ý nghĩa và tầm quan trọng ngày càng lớn của vấn đề bảo vệ môi trường đối với sự phát triển đất nước, đối với bảo vệ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân hiện nay và cho các thế hệ mai sau, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đã từng được nêu ra từ các Đại hội trước, được bổ sung thêm nội dung mới là “bảo vệ môi trường” để trở thành “quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.

- Dự thảo Báo cáo chính trị, đồng thời, đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, 2021-2025. Do tầm quan trọng và ý nghĩa cấp thiết của vấn đề quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, nội dung này được xác định là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung thực hiện. Đó là nhiệm vụ trọng tâm thứ 6: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đồng thời, trong các quan điểm phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, quan điểm thứ nhất có nội dung: “phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”.

 

3. Trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển các ngành, lĩnh vực

Dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đều có mục riêng về lĩnh vực tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu[8], trong đó có nhiều nội dung mới. Đồng thời, nhiều nội dung mới về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu còn được nêu ở các nội dung khác có liên quan, như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công ngiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, kết cấu hạ tầng... Tổng hợp lại, có các nội dung sau:

a. Về quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên

- Đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý, sử dụng tài nguyên. Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, nhất là đất đai, nước, khoáng sản theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch và phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên khoáng sản, đất, nước, rừng, biển của đất nước.

Đất đai là nguồn lực to lớn, nhiều năm qua quản lý còn chưa chặt chẽ, sử dụng còn chưa hiệu quả, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng quan tâm nhiều tới giải quyết vấn đề này, đề ra nhiều chủ trương, nhiệm vụ mới: Phát triển lành mạnh thị trường quyền sử dụng đất, thực hiện định giá đất theo cơ chế thị trường. Hoàn chỉnh việc đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai; tăng cường đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phát triển các dịch vụ công về đất đai. Quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả đất công, đất giao cho các doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp công lập, các lực lượng vũ trang sử dụng. Tạo điều kiện cho tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển nông nghiệp sản xuất lớn, công nghệ cao. Kịp thời phát hiện, khắc phục tình trạng để đất hoang hóa, sử dụng đất lãng phí; xử lý dứt điểm các vi phạm, tranh chấp, lấn chiếm, đầu cơ đất đai; ngăn chặn, xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham nhũng, trục lợi về đất đai, làm mất tài sản nhà nước.

Trong những năm tới, an ninh nguồn nước là vấn đề có tính toàn cầu, đặc biệt với nước ta, một nước phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước từ bên ngoài. Vấn đề quản lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước được Đại hội XIII đặc biệt quan tâm, đề ra nhiều yêu cầu mới, như: Hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước, bảo đảm an ninh nguồn nước. Tăng cường tích nước, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước. Đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia thượng nguồn và các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyen nước ở các lưu vực sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Công và sông Hồng. Đổi mới cơ chế tài chính về khai thác, sử dụng tài nguyên nước; khuyến khích sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, phát triển công nghệ tái chế nước thải.

b. Về bảo vệ môi trường

- Môi trường ngày càng trở thành vấn đề nóng của thời đại, của toàn cầu, ảnh hưởng ngày càng lớn đến phát triển kinh tế bền vững, đến chất lượng cuộc sống, sức khỏe của nhân dân. Ở nước ta, vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết. Đại hội XIII đặc biệt quan tâm và có nhiều quan điểm, chủ trương cụ thể, mới về vấn đề này, như: Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ bền vững môi trường. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát môi trường; nâng cao chất lượng đánh giá tác động môi trường của mọi dự án, hoạt động kinh tế; ngăn ngừa, hạn chế tối đa những ô nhiễm môi trường mới phát sinh. Xử lý dứt điểm ô nhiễm môi trường do hậu quả chiến tranh. Tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề, lưu vực sông, nhất là những cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là ở các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải ở nông thôn. Kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên. Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải chi trả chi phí xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo, phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường.

Khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ xử lý chất thải, tái chế, tái sử dụng chất thải, sản xuất năng lượng từ chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đáp ứng yêu cầu phát triển, cùng với đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái phù hợp với điều kiện từng vùng, tăng khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu. Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên; phát triển, nâng cao chất lượng rừng; tăng độ che phủ rừng gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Tăng cường bảo vệ môi trường; ngăn ngừa, kiểm soát, giảm ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học biển, đặc biệt là các rặng san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển.

c. Về ứng phó với biến đổi khí hậu

- Trước tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu diễn ra nhanh, phức tạp; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ngày càng nhiều, cường độ và tác động tàn phá ngày càng lớn, Đại hội XIII đặc biệt quan tâm đề ra nhiều chủ trương, nhiệm vụ ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu: Nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ tác động, thích ứng với biến đổi khí hậu. Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, tránh, hạn chế, giảm thiểu tác động do biến đổi khí hậu gây ra, như: khô hạn ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; xâm nhập mặn, lún xụt, sạt lở bờ sông, bờ biển ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; bão, lụt, lũ ống, lũ quét, sạt lở ở các khu vực đồng bằng trung du, miền núi; tình trạng ngập úng ở các đô thị lớn, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh...

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, huy động sự tham gia của toàn dân vào công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu của đất nước. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, các doanh nghiệp phát triển dựa vào tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, nguồn phát thải nhà kính. Chấn chỉnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi vi phạm.

- Chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, góp phần tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu, đi tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa đại dương./.

 

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, H, Nxb CTQG, 2021, tr.??????

 

[8] Trong Báo cáo chính trị là mục IX “Quản lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu”. Báo cáo chiến lược kinh tế - xã hội có mục 7 phần V “Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai”.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết