Thứ Ba, ngày 23 tháng 04 năm 2024

​Chế định phù hợp và hiệu quả quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Ngày phát hành: 23/12/2018 Lượt xem 3197

  

Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường một trong những nội dung trọng yếu là “xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường”[a]. Bản thân nhà nước, thị trường và xã hội là những thực thể hình thành và phát triển trong quá trình phát triển của xã hội loại người. Mỗi thực thể có quá trình sinh thành và phát triển và chịu sự tác động của các thực thể khác trong môi trường và hoàn cảnh cụ thể.

1.Thực tiễn phát triển của các nền kinh tế thị trường thế giới cho thấy, quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan tâm xuyên suốt chiều dài phát triển của các nền kinh tế thị trường trên thế giới. Chế định phù hợp và hiệu quả mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội là chìa khóa của sự phát triển.

Trong lý thuyết kinh tế đã tồn tại các trường phái khác nhau, từ nhấn mạnh vai trò thị trường, đến nhấn mạnh vai trò nhà nước hay nhấn đến sự cần thiết của cả nhà nước và thị trường trong nền kinh tế hỗn hợp. Bên cạnh đó, trong các nền kinh tế thị trường phát triển, vai trò xã hội cũng ngày được quan tâm trong việc bổ khuyết và giám sát cả thị trường và nhà nước, thậm chí sau sự thất bại của ‘đồng thuận Washington” không ít nền kinh tế chủ trương giảm thị trường, đẩy mạnh xã hội.

 Tuy nhiên, không có ngưỡng chung cho việc xử lý mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế, mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết định của thị trường và vai trò tham gia của xã hội là rất đa dạng, tùy thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất, quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thống văn hóa... Ngay trong bản thân mỗi nền kinh tế, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, cũng đều có sự điều chỉnh trong sự can thiệp của nhà nước vào thị trường, trong mối quan hệ của nhà nước với xã hội và tương quan giữa xã hội và thị trường. Đồng thời thực tiễn lịch sử cho thấy, sự thất bại của không ít nền kinh tế là do tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước hoặc tuyệt đối hóa vai trò thị trường, hoặc xem nhẹ vai trò của xã hội. Mô hình chung có tính phổ biến hiện nay là phát triển nền kinh tế hỗn hợp mà ở đó, vai trò nhà nước, vai trò thị trường và xã hội đều được phát huy, bổ khuyết cho nhau.

Trong mô hình kinh tế thị trường ở các nước phát triển phương Tây, nhà nước được chú ý nhiều hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh. Vai trò này đặc biệt được chú ý trong các thời kỳ khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, hoặc chuyển giao công - tư, nhà nước hầu như không triển khai đầu tư kinh doanh trực tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho tư nhân tham gia cung cấp. Nhà nước sử dụng các công cụ điều tiết, nhất là các chính sách tài chính - tiền tệ, thuế, ngân sách, xây dựng các chiến lược, quy hoạch dài hạn... để điều chỉnh, định hướng nền kinh tế, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các chủ thể trên thị trường hoạt động. Vai trò của xã hội được chú ý không chỉ tham gia định hình chính sách, giám sát quá trình thực hiện chính sách, mà còn tham gia cung cấp các dịch vụ công, hỗ trợ vai trò nhà nước và giám sát thị trường, bảo vệ nhóm đối tượng yếu thế mà bản thân nhà nước không thể bao quát hết.

Ở một số nền kinh tế Đông Á, trong thời kỳ đầu phát triển, nhà nước can thiệp khá mạnh vào nền kinh tế, thực sự là động lực thúc đẩy và định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây quá trình tư nhân hóa và phân quyền, giải điều tiết được đẩy mạnh. Vai trò nhà nước tuy được nhấn mạnh hơn so với các nền kinh tế ở châu Âu và Mỹ, song giữa nhà nước và thị trường đều có sự kết hợp chặt chẽ, nhà nước chú ý hơn trong việc tạo lập hành lang pháp lý, xây dựng các quy tắc, tạo lập kết cấu hạ tầng, chú ý các chính sách an ninh quốc gia và an ninh con người. Vai trò của xã hội trong tiến trình phát triển ngày càng được chú ý gắn liền với quá trình dân chủ hóa xã hội và sản xuất. Chẳng hạn, trường hợp Hàn Quốc, từ chỗ gạt bỏ vai trò của các tổ chức xã hội đến chỗ thừa nhận và sự tham gia ngày càng hiệu quả của các tổ chức xã hội vào quá trình phát triển. Trung Quốc trong quá trình cải cách, thiết lập thể chế phát triển cũng đã ngày càng chú ý đến vai trò thị trường, xem thị trường đóng vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực phát triển, và cho đây là quy luật phổ biến của kinh tế thị trường và trong quá trình kiện toàn thể chế kinh tế thị trường XHCN cần tuân thủ quy luật này. Bên cạnh đó về mặt xã hội tập trung vào phát huy vốn xã hội,với quan điểm “lấy nhân dân làm trung tâm”. Tóm lại, thực tiễn phát triển thế giới cho thấy, để khai thác tốt các nguồn lực, tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng, bảo đảm lợi ích các thực thể, rất cần xử lý phù hợp và hiệu quả mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội.

Trong quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, nếu như trước đây người ta thường chú ý nhà nước nhiều hay ít, thị trường mạnh hay yếu, hạn chế xã hội hay mở rộng, thì nay, vấn đề là thị trường, nhà nước hay xã hội thực hiện là hợp lý, là hiệu quả trong tiến trình phát triển của nền sản xuất ở mỗi quốc gia, hay ở mỗi thời đoạn phát triển. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ chế định mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội để các thực thể không kìm chế, hạn chế nhau, mà để chúng có thể phát huy vai trò một cách hiệu quả nhất.

Mỗi thực thể đều có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời vị trí, vai trò của các thực thể cũng có biến đổi cùng với sự biến đổi của mỗi thực thể trong các giai đoạn của kinh tế thị trường. Nhà nước, thị trường và xã hội nảy sinh và phát triển là kết quả phát triển tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Vấn đề không phải ở chỗ chúng tồn tại hay không mà là ở chỗ định hình thể chế phù hợp với mỗi giai đoạn trong tiến trình phát triển của kinh tế thị trường.

Quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội là quan hệ tương tác hỗ trợ, ràng buộc và thúc đẩy nhau. Không thể phát triển nhanh, bền vững khi mỗi thực thể không thể phát huy năng lực trong thực hiện chức năng của mình. Một thể chế tạo ra hợp lực giữa các thực thể khi thể chế mở ra điều kiện cho việc tạo ra lợi ích và bảo đảm lợi ích cho các thực thể, tức là bảo đảm lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và xã hội/người dân.

Trong xử lý mối quan hệ này, nội dung quan trọng trước hết là xác định phù hợp chức năng, vai trò của mỗi thực thể trong nền kinh tế. Điều thứ hai là phải định hình được cơ chế tác động lẫn nhau trong tương tác hai chiều cũng như tương tác đa chiều, từ đó thể chế hóa các chức năng, nhiệm vụ và hình thành các thiết chế để điều phối.

2. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch tập trung, hệ thống sản xuất, phân phối và tiêu dùng được thực hiện trên cơ sở kế hoạch của nhà nước, thị trường đúng nghĩa bị thủ tiêu, vai trò các tổ chức xã hội được lồng ghép vào vai trò thống nhất của nhà nước. Vì vậy, như thực tế cho thấy, sản xuất không hiệu quả, nguồn lực không được khai thác tốt, động lực phát triển không được khơi dậy. Tuy nhiên, cũng không nên phủ định sạch trơn thành quả của bao năm cả nước dốc sức vừa sản xuất vừa chiến đấu, giải phóng miền Nam. Nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ phù hợp với giai đoạn đặc biệt của đất nước khi phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Có điều sau khi thống nhất đất nước chúng ta đã có sai lầm, chưa kịp thời chuyển đổi cơ chế cho phù hợp với bối cảnh mới, bối cảnh hòa bình, cả nước cùng bước vào xây dựng xã hội mới.

Thực hiện đường lối đổi mới, vai trò các thực thể đã được xác định ngày càng phù hợp hơn:

Thứ nhất, về xác định vai trò nhà nước.

Qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã có những thành công bước đầu trong việc hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh vai trò tương ứng của nhà nước trong phát triển kinh tế. Điều đó thể hiện ở sự thay đổi cơ bản quan niệm về chức năng của nhà nước trong nền kinh tế. Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành kinh doanh của cơ sở”[b] và tại Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định tiếp: “ Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của nhà nước. Tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường”[c]. Các quan điểm trên đã được phát triển và tái khẳng định rõ và đầy đủ hơn tại Đại hội X của Đảng: “ Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp...”[d]. Tiếp đó, Đại hội XI nhấn mạnh việc thực hiện tốt chức năng nhà nước và giải quyết đúng đắn mối quan hệ nhà nước với thị trường.Tại Đại hội XII, trong quan niệm về chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế đã khẳng định rõ: “Vai trò của Nhà nước đã được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội”[e].  “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội”[f]. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.

Gắn liền với đổi mới nhận thức trên về vai trò nhà nước, là quá trình thể chế hóa, đưa các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng  vào cuộc sống. Trước hết, là việc thông qua Hiến Pháp 1992, tiếp đó là Hiến pháp 2013 đã chế định cụ thể vai trò quản lý kinh tế của nhà nước: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước….. Cùng với đó, hệ thống pháp luật dân sự, kinh tế được ban hành đồng bộ và ngày càng hoàn thiện. Việc ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vai trò nhiệm vụ nhà nước trong kinh tế đã góp phần quan trọng trong việc khơi thông các nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chính sách an sinh xã hội, tạo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội.

Hai là, cùng với ban hành hệ thống khung văn bản pháp luật xác lập vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách bảo đảm môi trường vĩ mô cho tăng trưởng. Trong đó đáng chú ý là các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính đã thiết lập các chuẩn mực để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tài chính, từ phân phối, động viên tài chính, đến kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính phát sinh trong nền kinh tế.

Ba là, đối với hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước cũng đã có nhiều quy định văn bản pháp luật, trong đó đáng chú ý là luật Doanh nghiệp nhà nước đã xác định rõ khuôn khổ hoạt động kinh tế của Nhà nước. Theo đó, hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước được chú ý nâng cao hiệu quả, các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập và trực tiếp quản lý được đa dạng hóa chủ sở hữu thông qua cơ chế cổ phần hóa hoặc các cơ chế có liên quan và cũng vì vậy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm đi trong những năm qua. Gắn liền với đó là khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng dư địa và hoạt động, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.

Thứ hai, về vai trò thị trường. “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[g].

Thị trường cũng chính là cơ chế chủ yếu thực hiện phân phối các thành quả của tăng trưởng kinh tế, trong đó thu nhập của mỗi người được hình thành trên cơ sở và phù hợp với kết quả lao động cũng như mức đóng góp về các nguồn lực trong quá trình tạo ra của cải xã hội. Đây là những tiền đề quan trọng để mọi chủ thể xã hội phát huy năng lực và sức sáng tạo, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho xã hội.

Rõ ràng là, quan niệm về vai trò thị trường đã có bước đổi mới căn bản, từ chỗ không thừa nhận đến chỗ thừa nhận và khẳng định vai trò chủ yếu trong huy động phân bổ nguồn lực trong thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng. Các luận điểm này đã được thể chế hóa trong các quy định, các luật trong những năm vừa qua.

- Trước hết, tạo dựng khung pháp lý cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội. Khung pháp lý này đã được quy định bởi các luật: Luật Đầu tư nước ngoài (1987), Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990),  Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995) và Luật Hợp tác xã (1996) , Luật Phá sản (ban hành 1993, sửa đổi 2004). Bước ngoặt quan trọng nhất của quá trình cải cách trong những năm gần đây là việc ban hành và thực thi Luật Doanh nghiệp (2005)Luật đầu tư (chung), thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước, được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2005, có hiệu lực từ 1/7/2006.

-  Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường hàng hoá, dịch vụ đã và đang tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả. Cụ thể ban hành, Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế năm (1989), tạo khung khổ pháp lý cho các hành vi giao dịch kinh tế trên thị trường. Bộ luật dân sự (1995, 2015) và Luật thương mại (1997, 2005) cũng đã được đưa vào thực hiện với nguyên tắc tự do, tự nguyện, tạo giúp cho các giao dịch trên thị trường ngày càng trở nên sống động. Song song với những biện pháp kể trên, trong những năm cuối của thập kỷ 80, Việt Nam đã tiến hành những biện pháp cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực giá cả theo xu hướng hình thành hệ thống một giá tương ứng với giá thị trường. Năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 137- HĐBT về quản lý giá và 10 năm sau, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh giá nhằm tạo lập khung pháp luật cho việc quản lý giá trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đặc biệt Luật giá (2012) quy định quản lý giá theo cơ chế thị trường.

- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xây dựng và vận hành thị trường các yếu tố sản xuất quan trọng nhất bằng việc thông qua các luật: Luật Lao động (năm 1994, 2012), Luật Đất đai (năm 1988, sửa đổi vào năm 1993, 2003 và 2013), Luật Xây dựng (năm 2004, sửa đổi 2014). Đối với thị trường khoa học công nghệ, lần đầu tiên, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghệ được đưa vào thành các quy định trong Bộ luật dân sự (1995). Một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng liên quan đến vận hành thị trường khoa học công nghệ phải kể đến như: Luật Khoa học và Công nghệ (2000, 2013); Bộ Luật dân sự (2015); Bộ Luật hình sự (1999, 2015 và Luật sửa đổi một số điều luật hình sự 2017). Đặc biệt đã ban hành hai luật quan trọng là Luật Sở hữu trí tuệ (2005, sửa đổi 2009) và Luật chuyển giao công nghệ (2006, 2017). Các luật này đã tiếp cận các tiêu chuẩn chung của thế giới.

Thứ ba, về vai trò xã hội. Đến Đại hội VI của Đảng, với đường lối đổi mới, đã nhận thấy cần xác định vai trò nhà nước trong quan hệ với phát triển xã hội. Chính điều này tạo bước đột phá trong xác lập quan hệ nhà nước và xã hội trên thực tế và theo đó tiến trình cải cách nền hành chính đã có bước đẩy mạnh. Tại Đại hội X của Đảng cũng đã khẳng định: “Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền; phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, lãng phí”[h]. Như vậy vai trò của Mặt trận và các tổ chức xã hội được chú ý, nhất là trong vai trò giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước . Đến Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”[i]… “ Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và của mỗi người dân trong việc quản lý và tổ chức đời sống cộng đồng theo quy định của phát luật”[j]. Vai trò của các tổ chức xã hội nói chung, ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, không chỉ giám sát, kiểm tra, tham gia chế định chủ trương, chính sách, mà còn cả trong tổ chức đời sống cộng đồng.

Bên cạnh các tổ chức chính trị -xã hội như mặt trận, công đoàn, thanh niên, hội cựu chiến binh…từ khi thực hiện đường lối đổi mới nhiều tổ chức ngoài nhà nước đã ra đời. Các tổ chức này đã tham gia cung cấp dịch vụ công, vận động và thực thi các chính sách của nhà nước, giám sát và phản biện xã hội….Trên thực tế vai trò của xã hội đã có biến đổi trong quan hệ với nhà nước. Và trong thời gian qua, Việt Nam đã có các chủ trương phát huy vai trò các tổ chức xã hội. Nghị quyết số 11-NQ/TW  chỉ rõ cần thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trường.

 Nhà nước cũng đã ban hành các quy định về lập hội, về vai trò của các tổ chức chính trị xã hội. Tổ chức xã hội là tổ chức tự nguyện của nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tự quản, là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên. Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và được thay bởi Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010. Nghị định 103/2017/NĐ-CP quy định thành lập, tổ chức, hoạt động, giải thể và quản lý các cơ sở trợ giúp xã hội. Tính đến tháng 12 năm 2014 có 52.565 hội đăng ký, trong đó có 483 hội hoạt động trong phạm vi cả nước, 52.082 hội ở phạm vi địa phương, trong đó 8.792 hội có tính chất đặc thù ( 28 hội trong phạm vi cả nước, 8.764 hội ở địa phương)

 Hay Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện và được sửa đổi, thay thế bởi Nghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện….Đây là các quỹ xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận.

Cơ chế xây dựng pháp luật ngày càng dân chủ, công khai, tạo cơ hội và thu hút sự tham gia thảo luận, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Các quyền con người, quyền công dân về kinh tế làm nền tảng cho chế độ kinh tế đã được quy định trong Hiến pháp, đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật và văn bản dưới luật.

Đáng chú ý ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị khoá VIII đã ra Chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở để cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm qua đã góp phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư….

Như vậy, cùng với việc xác định ngày càng rõ chức năng, vai trò của nhà nước, thị trường và xã hội, việc chế định, thể chế hóa vai trò của các thực thể cũng đã được thực hiện. Bên cạnh đó nhiều tổ chức, thiết chế mới được hình thành hoặc điều chỉnh bổ sung nhiệm vụ như:  đổi mới chức năng chính phủ theo hướng xây dựng nhà nước kiến tạo, thành lập Kiểm toán nhà nước, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia…Các quy định gia tăng vai trò phản biện của các tổ chức xã hội, các cơ chế phối hợp hoạt động giữa các thành tố trong hệ thống chính trị… góp phần tạo lập cơ chế phối hợp, bổ sung và giám sát lẫn nhau trong phát huy vai trò nhà nước, thị trường và xã hội để khai thác, phân bổ các nguồn lực cho sản xuất và tiêu dùng ngày càng hiệu quả, bảo đảm lợi ích chung của xã hội, nhà nước và thị trường/doanh nghiệp.

3. Bên cạnh những kết quả trong xác định và thể chế hóa vai trò nhà nước, thị trường và xã hội, việc xử lý quan hệ này cũng còn không ít hạn chế đặt ra cần tiếp tục xem xét, giải quyết.

Thứ nhất, về vấn đề sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước

Trong văn kiện của Đảng đã chính thức sử dụng thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữu toàn dân và kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên, quan niệm về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân vẫn chưa đạt được sự thống nhất. Các quy định pháp luật của Việt Nam cũng chưa rõ ràng và thống nhất trong việc đề cập tới sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể sử dụng sở hữu nhà nước phải được thể hiện ở hai góc độ: quyền sở hữu pháp lý (danh nghĩa) và quyền sử dụng thực tế. Ở góc độ quyền sở hữu pháp lý, Nhà nước có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu của mình. Ở góc độ quyền sử dụng thực tế, Nhà nước phải xây dựng và phát triển những tổ chức quản lý có hiệu quả tài sản và vốn của Nhà nước giao phó.

Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các sở hữu nhà nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của Nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là, hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành: doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, các quỹ quốc gia…).

Trong những năm qua, kinh tế nhà nước đã đóng vai trò cột trụ, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế nhà nước cũng đã bộc lộ hạn chế, bất cập, tập trung vào các vấn đề như: việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản; phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; cơ chế giám sát, công khai, minh bạch hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa tốt; khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ nhà nước; nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho dịch vụ công, phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ công vẫn còn một số bất cập.

Thứ hai, về vấn đề nhà nước kiến tạo phát triển và phục vụ

Về cơ bản, nhà nước kiến tạo có các đặc trưng như: Nhà nước xây dựng chiến lược, tạo dựng môi trường và điều kiện cho phát triển xã hội; Nhà nước dự báo, chia sẻ và hướng dẫn trong phát triển xã hội; Nhà nước tiết kiệm và mang tinh thần kinh doanh trong quản lý phát triển xã hội; Nhà nước tinh gọn, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả đối với phát triển xã hội; Nhà nước phát triển và trọng dụng nhân tài

Tuy nhiên, một điều có thể thấy là ở một khía cạnh nhất định, Nhà nước dường như chưa đủ năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường hoặc những thị trường đặc biệt mà tư nhân không hoặc chưa tham gia. Điều này đặt ra những khó khăn, thách thức đối với năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường hoặc những thị trường đặc biệt mà tư nhân không hoặc chưa tham gia. Một số bất cập tồn tại và thách thức trong xây dựng nhà nước kiến tạo và phát triển như:

- Đầu tư công của nhà nước chưa đủ sức “làm mồi”, “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường; phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế; đầu tư còn dàn trải, phân tán, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém. Tình trạng thi công vượt quá vốn kế hoạch được giao, gây nợ đọng xây dựng cơ bản quá mức, gây áp lực lớn đến cân đối ngân sách nhà nước các cấp.

- Hệ thống cung ứng dịch vụ công chưa thật sự trở thành khách hàng phục vụ doanh nghiệp và người dân. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: hệ thống cơ chế chính sách trong tổ chức và cung ứng dịch vụ công hiện nay chưa được xây dựng theo quan điểm hướng đến mức độ thiết yếu của từng loại dịch vụ; chưa xác lập cơ chế minh bạch và đúng đắn đối với hàng hóa đặc biệt là dịch vụ sự nghiệp công theo nguyên tắc thị trường; chưa phân biệt rõ giữa phí sử dụng dịch vụ công mà người sử dụng phải trả với giá thành dịch vụ công; trong nhiều trường hợp, tính chất “công” của dịch vụ không được đảm bảo, trong khi đó một số trường hợp vẫn còn hiện tượng bao cấp qua trợ giá; tư tưởng cốt lõi của cơ chế quản lý đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay là lấy mức kinh phí huy động được ngoài ngân sách nhà nước làm căn cứ để giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp là chưa phù hợp.

Thứ ba, về vấn đề sử dụng các công cụ can thiệp của nhà nước

Nhà nước đóng vai trò không thể thiếu trong việc điều tiết thị trường thông qua việc sử dụng các công cụ can thiệp. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ can thiệp của nhà nước còn tồn tại một số bất cập như: công cụ pháp luật chưa ổn định, nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế; chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính; hiệu quả của phối hợp chính sách tiền tệ  và chính sách tài khóa thời gian vừa qua còn bộc lộ những hạn chế và đối mặt với một số thách thức; việc cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách  chưa được thiết lập một cách chính thức; lực lượng vật chất của nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí,  vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường; quy hoạch, kế hoạch của nhà nước chưa bảo đảm cho đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thống nhất được lợi ích nhà đầu tư và lợi ích nhà nước, giữa mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, giữa phát triển đất nước, vùng và địa phương; hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia.

Thứ tư, về vấn đề cạnh tranh, chống độc quyền và phát triển kinh tế tư nhân

Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực thi, các doanh nghiệp vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong các thủ tục hành chính, đầu tư kinh doanh gây phiền hà, tốn thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Nhà nước dường như chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công; chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp tư nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế.

Thứ năm về vấn đề tôn trọng quy luật kinh tế thị trường và vai trò thị trường

Nhìn một cách tổng thể, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm: Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn còn tình trạng bao cấp, xin – cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách. Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm về vật chất đối với các quyết định của mình. Quan hệ hàng hóa, tiền tệ bị coi nhẹ, do đó, trong nhiều trường hợp, đáng lý là quan hệ cung cầu, thì quyền lực và sự duy ý chí lại đi trước dẫn dắt thị trường. Nhà nước dường như chưa đặt doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà đầu tư bình đẳng trên thị trường; nguồn lực nhà nước đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch chưa hoàn toàn tôn trọng quy luật thị trường, bị lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối, dẫn tới hiệu quả thấp.

Thứ sáu, trong quan hệ giữa nhà nước và xã hội vẫn còn không ít vấn đề đặt ra, cản trở sự phát triển. Chẳng hạn như: Thủ tục hành chính rườm rà trong các quan hệ dân sự, làm giảm vai trò xã hội trong tham gia quản lý và điều tiết sự phát triển; Tình trạng đặc quyền và lạm quyền trong thực thi công vụ của công chức gây bức xúc trong nhân dân. Nhiều nguồn lực trong dân cho phát triển khoa học công nghệ chưa được khai thác, mới chú ý đến các viện, các tổ chức do nhà nước thành lập. Trong thực tế, vai trò của các tổ chức xã hội tham gia cung cấp dịch vụ và thực hiện giám sát nhà nước và doanh nghiệp cũng chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được xác định rõ. Nguyên nhân chính là còn thiếu các qui định, thể chế hoạt động của các tổ chức xã hội trong quan hệ với thị trường và nhà nước. Đây là vấn đề cần được đầu tư nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các quy định, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội.

Từ nhận thức như vậy cho nên vai trò của các hiệp hội, tổ chức đại diện cho khu vực tư vẫn mang nặng tính hình thức, chưa thực sự có tiếng nói nhất định trong các tổ chức đại diện quyền lực của Nhà nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu ái” về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ gây bức xúc dư luận. Điều này do nhận thức về vai trò của hội đối với phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới chưa chuyển kịp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại. Mặt khác, thể chế về hội chưa thực sự được quan tâm ưu tiên, nghiên cứu để xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Không ít cơ quan nhà nước còn có tư tưởng băn khoăn, e ngại, thiếu niềm tin vào các hội nên chậm hoàn chỉnh thể chế để phát huy sự tham gia của các hội với đời sống chính trị- xã hội. Theo đó, cần đổi mới hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với các tổ chức xã hội.

Thứ bảy, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thể chế kinh tế nước ta vẫn chậm đổi mới, thiếu chủ động trong xây dựng các rào cản không trái với các cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và doanh nghiệp trong nước trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Bên cạnh những đổi mới trong quá trình gia nhập thị trường quốc tế, nhưng các vấn đề như hợp đồng, thực thi, các thị trường, nhân tố sản xuất, đất đai, lao động, tài chính…, còn  nhiều điều phải xem xét, chỉnh sửa theo hướng tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Có như vậy mới bảo đảm sự vận hành của nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

4. Để tiếp tục xử lý phù hợp và hiệu quả quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, cần tiếp tục nghiên cứu và đánh giá thực tiễn. Trước mắt theo tôi nên tập trung vào một số hướng sau:

Một là, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thị trường đang được xây dựng, phát triển hoàn thiện, ngày càng đóng vai trò quan trọng. Vai trò của thị trường gắn liền với sự hoàn thiện của nó. Chính vì vậy, nhà nước càng đặc biệt quan trọng. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc thù riêng như sau:

- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hình thành và phát triển trên cơ sở thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trên cơ sở xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, phi thị trường. Vì vậy, việc đổi mới vai trò, chức năng, phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước là tiền đề, điều kiện cho sự hình thành, hoạt động, phát huy vai trò của thị trường nói riêng, sự ra đời, phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung

- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời với thực hiện vai trò, chức năng của Nhà nước như ở các nền kinh tế thị trường hiện đại khác, Nhà nước còn phải tạo ra những tiền đề, điều kiện và điều tiết hoạt động để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ, nếu để phát triển một cách tự phát, nền kinh tế thị trường sẽ phát triển theo định hướng tư bản chủ nghĩa.

- Cùng với thúc đẩy và điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế, Nhà nước còn quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đồng bộ với phát triển kinh tế, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng xã hội cần được quan tâm, giúp đỡ… hướng sự phát triển nền kinh tế thị trường đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Với những đặc thù đó, xử lý mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần hết sức linh hoạt, năng động: 1- Trong khi thị trường còn chưa phát triển, Nhà nước trực tiếp can thiệp, tạo lập sự phát triển của thị trường thông qua các cơ chế chính sách và chủ động tạo “dư địa” cho thị trường phát huy tác dụng. Như vậy, cùng với quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cũng cần điều chỉnh mức độ can thiệp cho phù hợp dựa trên cơ sở tiêu chí chung là hiệu quả của quá trình phát triển. 2- Xử lý quan hệ nhà nước và thị trường cần toàn diện và đồng bộ, gắn với thực trạng mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và chú ý không chỉ trên phương diện sở hữu, nhằm khơi dậy, phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, mà cần chú ý cả trong khâu phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong trao đổi, giá cả phải trên cơ sở thị trường và trong phân phối phải bảo đảm nguyên tắc thị trường trong phân phối lần đầu và nhà nước can thiệp trong tái phân phối để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, giảm thiểu phân hóa giàu nghèo. 3- Để xử lý tốt mối quan hệ này, cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Nhà nước, kể cả cấp Trung ương và địa phương. Sẽ không thể xử lý tốt mối quan hệ này nếu thiếu một chính phủ năng động, kiến tạo. Xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ chính là tạo ra thể chế quản trị hiệu quả, một chính phủ mạnh, một nền công vụ chuyên nghiệp, gọn nhẹ, minh bạch, vì dân. Đây chính là cơ sở để quản trị tốt nền kinh tế nói chung, xử lý tốt mối quan hệ nhà nước và thị trường nói riêng.

Hai là, quan hệ nhà nước và xã hội là vấn đề phức tạp không chỉ trên phương diện lý luận mà còn trên phương diện thực tiễn. Mối quan hệ này cũng như tương quan trên thực tế vai trò nhà nước và xã hội trong tiến trình phát triển có sự thay đổi, nên rất cần nghiên cứu tiếp cận. Ngay bản thân trong các xã hội phương Tây, nhận thức về vai trò nhà nước , thị trường, xã hội cũng có sự biến đổi. Có điều là vai trò xã hội ngày càng được thừa nhận.

Với sự phát triển mạnh của nền sản xuất xã hội, bản thân nhà nước không thể quan tâm hết các khía cạnh của đời sống xã hội, cũng như đến tất cả các đối tượng trong xã hội. Trong rất nhiều trường hợp nhà nước có ít thông tin hơn thị trường và xã hội, vì vậy dẫn đến không ít quyết sách không phù hợp. Nhất là tại các nước đang phát triển như Việt Nam, hệ thống cơ sở dữ liệu còn nghèo nàn và sự minh bạch hóa còn hạn chế. Hơn nữa trong quản lý nhà nước thường theo nhiệm kỳ bị sức ép đáng kể để có kết quả trong ngắn hạn và nhiều khi không đủ thời gian để theo đuổi một chính sách dài hơi bền vững, cũng như không thể theo dõi liên tục, thường xuyên về những vấn đề cụ thể. Một hạn chế nữa là trong hệ thống quản lý nhà nước kể cả ở các nước phát triển thường thiếu công cụ đánh giá hiệu quả công việc dẫn đến không ít trường hợp việc thực hiện công việc mang nặng tính đối phó, không hiệu quả. Và nhu cầu tất yếu đặt ra bản thân các tổ chức xã hội phải tham gia gánh vác. Chính điều này thường đẩy đến các các thái cực trong quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Nên rất cần có sự tương tác giữa xã hội với nhà nước. Trong quan hệ với nhà nước, các tổ chức xã hội thực hiện vai trò: tham gia vào quá trình hoạch định chủ trương, chính sách, là người thực hiện và giám sát quá trình thực hiện chính sách. Do vậy rất cần không gian và điều kiện cho các tổ chức xã hội phát huy vai trò của mình. Ở đây cũng đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa vai trò của các tổ chức xã hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cho phù hợp.

Ba là, trong quan hệ với thị trường, xã hội với tư cách là các tổ chức xã hội tự nguyện của người dân, thực hiện bảo vệ quyền lợi của họ trước tác động của thị trường. Ở Việt Nam cơ chế thị trường đang trong quá trình xây dựng và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn liền với đó là sự ngày càng phát triển và mở rộng dân chủ hóa đời sống xã hội. Trong quá trình này sự tương tác giữa xã hội và thị trường ngày càng lớn

Thực ra sự phát triển của thị trường đã thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội, tạo điều kiện cho nâng cao vai trò xã hội trong xây dựng và phát triển nền kinh tế. Xung quanh mối quan hệ này còn ít được đề cập trong các nghiên cứu ở Việt Nam.

Quan hệ thị trường với xã hội nảy sinh khi mà lợi ích xã hội bị sự phát triển tự do của thị trường lấn át. Trong nhiều trường hợp, nhà nước tham gia xử lý vấn đề, song không phải lúc nào và mọi vấn đề nhà nước có thể quan tâm, quán xuyến được hết. Và thông thường xã hội cảm nhận thấy trước hết sự tác động của sự phát triển lệch chuẩn của thị trường. Chẳng hạn vấn đề ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm…

Quan hệ xã hội với thị trường, trước hết, chính là giải quyết mối quan hệ các tổ chức xã hội với doanh nghiệp nhằm tạo môi trường cho tăng trưởng bảo đảm lợi ích không chỉ của doanh nghiệp mà còn cho xã hội. Cơ chế chính là thông qua các phong trào, ý kiến của người dân, các tổ chức xã hội, buộc các doanh nghiệp phải điều chỉnh hành vi cả trong sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng; Thứ hai, gián tiếp thông qua tác động đến nhà nước để hình thành các quy định điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp cũng như thực hiện giám sát quá trình hoạt động, phản biện lại các chủ trương và chiến lược phát triển của các doanh nghiệp. Thứ ba, liên kết các mạng lưới xã hội, trao đổi thông tin, khai thác các nguồn lực thực hiện tự quản, hỗ trợ các nghiệp đoàn, bảo vệ các nhóm yếu thế…; Thứ tư, xây dựng các doanh nghiệp xã hội, thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội phi lợi nhuận, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Thứ năm, thực hiện vai trò hỗ trợ nhà nước và hỗ trợ thị trường trong xử lý quan hệ tương tác giữa nhà nước và thị trường (chẳng hạn nắm thông tin thị trường, phản ánh cho nhà nước xử lý, hoặc hỗ trợ nhà nước, điều chỉnh thị trường)

Bốn là, đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò nhà nước, thị trường và xã hội , đồng thời hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa các thực thể này

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh tuân theo các quy luật cung cầu, giá trị….nên không tránh khỏi những khiếm khuyết rất cần bàn tay nhà nước cũng như các tổ chức xã hội. Cùng với nhà nước, xã hội có vai trò và năng lực đảm đương vai trò đó. Song xã hội cũng cần phải được định hướng theo nguyên lý phục tùng lợi ích chung của toàn xã hội

Cần thể chế hóa, tạo dư địa cho các tổ chức xã hội phát huy mạnh mẽ năng lực của mình trong quan hệ với nhà nước và thị trường. Tất nhiên không nên nhà nước hóa tất cả các tổ chức xã hội, như vậy vừa tạo gánh nặng cho ngân sách và cũng không phát huy được tính năng động sáng tạo của các tổ chức này. Bản chất của nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân hoàn toàn phù hợp với mục tiêu hoạt động của các tổ chức xã hội. Do vậy cần có cơ chế cho việc tạo lập và hình thành các tổ chức xã hội với mục tiêu vì lợi ích cộng đồng; và cũng cần có quy định chế tài để loại bỏ các hoạt động lợi dụng dân chủ, đối lập với lơi ích của người dân, cũng có nghĩa đối lập với bản chất nhà nước ta.

Chú ý hoàn thiện thể chế để nhà nước, xã hội và thị trường có thể phát huy năng lực ngay trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất. Cụ thể, cần tập trung, tiếp tục hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; thể chế cho cải thiện môi trường đầu tư; thể chế cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, cần hoàn thiện thể chế trong quá trình trao đổi, phân phối vừa bảo đảm tính ngang giá, vừa tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh.

Hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa nhà nước, thị trường (doanh nghiệp) và xã hội. Cơ chế này phải dựa trên nguyên tắc phục tùng lợi ích phát triển chung của toàn xã hội. Nhà nước chỉ can thiệp trong các trường hợp thị trường thất bại. Như vậy đặt ra yêu cầu là rà soát các quy chế, quy định trong lĩnh vực điều hành của nhà nước, tháo gỡ các can thiệp không cần thiết, làm sai lệch hoặc méo mó thị trường, và đương nhiên bổ sung các quy định, để có can thiệp phù hợp kịp thời, tránh bỏ qua các cơ hội, hoặc không bao quát hết vai trò của nhà nước. Trong cơ chế này, nhà nước, xã hội và doanh nghiệp hoàn toàn bình đẳng trong nhà nước pháp quyền với tư cách là các chủ thể trên thị trường.

Điều có ý nghĩa và rất cần thiết là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nhất là phương thức lãnh đạo phát triển kinh tế, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản và nâng cao chất lượng, hiệu quả bộ máy, biên chế trong cơ quan nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

Với ý nghĩa như trên, một cơ chế cần được xác lập trong xử lý quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, thị trường phân bổ và xã hội giám sát, bổ sung. Trong cơ chế này Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua đường lối, nhà nước thực hiện vai trò quản lý, tạo lập khuôn khổ pháp lý và môi trường tăng trưởng là chính, thị trường phát huy vai trò trong huy động và phân bổ nguồn lực; xã hội thực hiện vai trò giám sát cả nhà nước và thị trường, đồng thời bổ khuyết, khắc phục những trường hợp bị thị trường gạt bỏ hoặc nhà nước không bao phủ hết.

 

PGS.TS. Vũ Văn Hà

Tạp chí Cộng sản

                                                                       



[a] .Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm  BCHTW, Khóa XII, Văn phòng TƯ, H. 2017, tr.28

[b] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, H. 1991, tr.23

[c] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, H.1996, tr. 27

 

[d] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 26-27

 

[e] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H., 2016, tr. 98

[f] .Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm, BCHTW khóa XII, Văn phòng TƯ Đảng, H,2017, tr.32

[g] . Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm, BCHTW khóa XII, Văn phòng TƯ Đảng, H.2017, tr.32-33

[h] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H. 2006, tr.47

[i] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.87

[j] . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.146

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết