1. Trong lịch sử hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa. Trong mọi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản đều mang trong mình những thuộc tính chung, cơ bản, tạo nên bản chất của chủ nghĩa tư bản, phân biệt chủ nghĩa tư bản với các chế độ xã hội khác (hay các hình thái kinh tế - xã hội khác). Đồng thời, trong mỗi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản lại có những đặc điểm riêng, những biểu hiện mới cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả trong cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản hiện đại có đặc điểm lớn so với tất cả các giai đoạn phát triển trước đây là trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ rất cao của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nước tư bản phát triển, như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản là những nước đi đầu trong nghiên cứu phát triển và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đi đầu trong các lĩnh vực điện tử, tin học, thông tin, viễn thông, phát triển Internet, trí tuệ nhân tạo, công nghệ vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ sinh học... làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất, chất lượng, hiệu quả của những ngành kinh tế truyền thống và tạo nên nhiều ngành, lĩnh vực, nhiều sản phẩm mới, công nghệ cao, có giá trị gia tăng, mức cạnh tranh cao. Ngày nay, các nước tư bản phát triển cũng đang đi đầu trong việc phát triển nền kinh tế số, kinh tế tri thức, nền kinh tế thông minh với các ngành công nghiệp thông minh, nông nghiệp, dịch vụ thông minh, hệ thống giao thông, năng lượng, thông tin thông minh, hệ thống phân phối thông minh... Sự phát triển của lực lượng sản xuất trên nền tảng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra tiềm năng cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Các nước tư bản phát triển trở thành các trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học công nghệ của thế giới, có quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người thuộc hàng cao nhất thế giới.
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những đặc điểm mới. Tích tụ, tập trung sản xuất làm hình thành các công ty có quy mô ngày càng lớn, trở thành những công ty tư bản độc quyền. Nhu cầu vốn của các công ty này vô cùng lớn, vượt quá khả năng của một vài cá nhân, đòi hỏi phải thu hút các nguồn lực xã hội. Công ty cổ phẩn trở thành hình thức tổ chức phổ biến của các công ty, tập đoàn kinh tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sở hữu tư nhân, nền tảng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong các công ty này, không còn tồn tại dưới hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở hữu tư nhân đã được xã hội hóa. Trong các công ty cổ phần, không chỉ có vốn của các nhà tư bản mà còn có sự tham gia của công nhân, người lao động. Với việc tham gia thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường chứng khoán, số người (và tổ chức) đầu tư vào cổ phiếu ngày càng nhiều, quyền sở hữu cổ phần của công ty ngày càng phân tán. Tuy nhiên, các nhà tư bản vẫn là người nắm giữ cổ phần chi phối công ty, tập đoàn. Trong các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia, siêu quốc gia, các nhà tư bản chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở công ty mẹ thì thông qua “chế độ tham dự” có thể chi phối được lượng vốn rất lớn của xã hội.
Trong nền kinh tế tư bản hiện đại, không chỉ hình thức sở hữu mà cả đối tượng sở hữu cũng có những yếu tố mới. Cùng với đối tượng sở hữu là các yếu tố của tư liệu sản xuất truyền thống, như đất đai, tài nguyên, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu..., xuất hiện nhiều đối tượng sở hữu mới, như cổ phiếu, trái phiếu, thương hiệu của doanh nghiệp, nhất là sở hữu trí tuệ, sở hữu các phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, các thiết kế, kiểu dáng sản phẩm... Việc sở hữu những đối tượng này có ý nghĩ ngày càng lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp và thực tế sở hữu các đối tượng này đều ở trong tay các nhà tư bản.
Các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng có những thay đổi lớn. Các dây chuyền sản xuất tự động, các máy móc tự động, các robốt thay thế cho con người được sử dụng ngày càng nhiều. Các dây chuyền tự động hóa không chỉ sản xuất hàng loạt một loại sản phẩm mà còn có khả năng sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu, thiết kế riêng của từng khách hàng. Hệ thống máy tính, trí tuệ nhân tạo đã thay thế nhiều hoạt động quản lý sản xuất, phân phối của con người. Thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn chỉnh một sản phẩm trước đây, ngày nay, việc sản xuất một sản phẩm, nhất là những sản phẩm lớn, phức tạp, được chia nhỏ, phân tán cho nhiều đơn vị sản xuất độc lập thực hiện, chuyên môn hóa sản xuất những chi tiết, linh kiện được tiêu chuẩn hóa, tạo nên chuỗi các công đoạn sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Các đơn vị sản xuất có thể ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau. Cách thức tổ chức sản xuất mới tạo điều kiện, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng có công nghệ hiện đại hợp tác, liên kết, trở thành vệ tinh, đối tác tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn. Các công ty, tập đoàn kinh tế lớn chuyển quản lý từ mô hình “kim tự tháp”, tập trung quyền quản lý vào các công ty mẹ sang quản lý theo mô hình “mạng lưới”, mỗi đơn vị sản xuất là một điểm nút trong mạng lưới, có tính tự chủ cao, có khả năng ứng phó linh hoạt, hiệu quả với các biến động của thị trường. Các nhà tư bản chỉ cần nắm cổ phần chi phối ở công ty mẹ, nắm các công nghệ cốt lõi, thương hiệu, hệ thống phân phối sản phẩm cuối cùng là chi phối được toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm. Nền kinh tế thị trường hiện đại với vai trò chi phối của các tổ chức tư bản độc quyền là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu xã hội, giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Ngay cơ cấu giai cấp công nhân cũng có những sự thay đổi lớn, quan trọng. Bên cạnh lực lượng đông đảo những công nhân truyền thống, những người lao động làm thuê trực tiếp làm việc trong các dây chuyền sản xuất, lưu thông của các công ty, tập đoàn tư bản, họ được xem là những “công nhân cổ xanh” (trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, họ cũng đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật đến một trình độ nhất định, phải được đào tạo mới đáp ứng được yêu cầu công việc), còn có một bộ phận người lao động làm thuê có trình độ cao, có thu nhập cao, đảm nhận các vị trí lãnh đạo, quản lý, chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau trong guồng máy sản xuất của tư bản, họ được xem là những “công nhân cổ trắng”. Công nhân cổ trắng cùng với tầng lớp công chức, viên chức nhà nước, các luật sư, bác sĩ, giáo sư các trường đại học, các viện nghiên cứu,... trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Ở các nước tư bản phát triển, tầng lớp trung lưu chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu xã hội, ở giữa hai cực là giai cấp tư sản giàu có và những người lao động có mức sống thấp, những người thất nghiệp có cuộc sống vô cùng khó khăn.
- Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dù có sự khác nhau ở các nước và ở các thời kỳ khác nhau, nhà nước tư bản đều có vai trò và ảnh hưởng lớn đến các quan hệ kinh tế và sự phát triển kinh tế, tạo nên cơ chế phối hợp giữa nhà nước, thị trường và xã hội trong việc điều tiết các hoạt động kinh tế của đất nước. Nhà nước không chỉ xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tạo khung khổ pháp luật, duy trì sự ổn định xã hội cho các hoạt động kinh tế, mà còn bằng các chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng hoặc thắt chặt, các hoạt động đầu tư, mua sắm, kiểm soát của chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực, với hoạt động của các công ty, tập đoàn kinh tế để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu, đầu tư ra nước ngoài, phục vụ lợi ích của các tập đoàn tư bản. Nhà nước đóng vai trò như một nhà tư bản tập thể, lý tưởng. Đồng thời, ở các mức độ khác nhau, Nhà nước ở các nước tư bản phát triển đều thể hiện sự quan tâm, coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người lao động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; thông qua chính sách thuế để phân phối lại thu nhập, thông qua các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã hội; định hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, các tổ chức xã hội do người dân, các tầng lớp, đối tượng xã hội tự nguyện thành lập ngày càng nhiều, có vai trò ngày càng lớn. Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội hoạt động để bảo vệ lợi ích của các thành viên, hội viên của mình, phản ánh với nhà nước nguyện vọng, ý kiến của thành viên, hội viên; thay mặt các thành viên, hội viên thương lượng với giới chủ về tiền lương, điều kiện lao động và các bảo đảm xã hội cho người lao động... Đây là những yếu tố mới, những xu hướng tiến bộ đang hình thành, phát triển trong lòng chủ nghĩa tư bản. Tùy theo mức độ, nội dung can thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế thị trường mà có nhiều mô hình phát triển khác nhau trong các nước tư bản phát triển, như mô hình kinh tế thị trường tự do (Mỹ, Anh), mô hình kinh tế thị trường xã hội (Đức), mô hình kinh tế thị trường phúc lợi xã hội (các nước Bắc Âu), mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc). Sự điều tiết của nhà nước, sự tham gia của các tổ chức xã hội tuy không làm thay đổi được bản chất của tư bản, không xóa bỏ được những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, nhưng làm giảm nhẹ được tính chất đối kháng giai cấp, hạn chế được nguy cơ khủng hoảng và bùng nổ xã hội.
- Một đặc điểm mới, quan trọng khác của chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, Xu hướng phát triển của tư bản là không giới hạn, phá vỡ mọi giới hạn. Ban đầu, khi mới phát triển, tư bản đã phá vỡ tình trạng cát cứ phong kiến, làm hình thành nền kinh tế thống nhất, thị trường thống nhất trong một quốc gia. Khi tư bản phát triển, trở thành các công ty, tập đoàn lớn, thị trường trong nước trở nên nhỏ bé, không đáp ứng được yêu cầu hoạt động, phát triển của tư bản. Bành trướng ra nước ngoài, mở rộng thị trường, khai thác các nguồn lực nước ngoài trở thành một yêu cầu khách quan, tất yếu của tư bản. Các công ty, tập đoàn tư bản lớn là lực lượng xung kích, đi đầu thúc đẩy các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, xuất khẩu tư bản, tạo nên sự vận động, luân chuyển của các luồng vốn, tiền tệ, các luồng hàng hóa, dịch vụ, các hoạt động thương mại, đầu tư trên quy mô toàn cầu, làm hình thành thị trường thế giới, phân công lao động và hợp tác quốc tế trên toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu từ cả hai phía. Phía các nước tư bản phát triển, các công ty, tập đoàn tư bản lớn mở rộng được thị trường tiêu thụ, khai thác được thêm các nguồn lực để phát triển. Phía các nước kém phát triển có nguồn vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ, phương thức sản xuất mới, hiện đại, có thị trường tiêu thụ để khai thác, phát huy các tiềm năng, thế mạnh của mình phát triển đất nước, cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do toàn cầu hóa được dẫn dắt, thúc đẩy bởi các tập đoàn, công ty tư bản và của nhà nước ở những nước tư bản phát triển, là sự mở rộng hoạt động của tư bản trên phạm vi toàn cầu, vì lợi ích của tư bản, nên mặc dù bề ngoài là những quan hệ bình đẳng, tự nguyện của từ hai phía, nhưng thực chất là những quan hệ không bình đẳng (không thể bình đẳng) bởi tương quan lực lượng giữa hai bên. Các công ty, tập đoàn tư bản, được sự hỗ trợ của nhà nước tư bản, nắm mọi lợi thế, yếu tố quyết định để chi phối các nước kém phát triển, các nước kém phát triển ở vào thế yếu, ít có khả năng lựa chọn. Thu hút các nước kém phát triển tham gia vào các chuỗi giá trị sản phẩm của mình là để các tập đoàn tư bản khai thác nguồn lao động phổ thông giá rẻ, các tài nguyên thiên nhiên, chuyển giao những công nghệ thấp, những thiết bị còn có thể và cần được tận dụng, những sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, những lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường... Các nước kém phát triển trở thành khu vực “ngoại vi” của các trung tâm phát triển của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được cải thiện, nhưng có một khoảng cách xa giữa vùng “ngoại vi” với các “trung tâm” và khoảng cách này có xu hướng ngày càng mở rộng.
2. Do chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh, thích nghi, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới như nêu ở trên, nên đã có một số quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay đã thay đổi về bản chất, không còn là chủ nghĩa tư bản như trước đây, không còn là chế độ bóc lột. Ngày nay, máy móc đã thay thế rất nhiều, và trong tương lai, máy móc tự động hóa có thể thay thế hoàn toàn lao động của công nhân ở nhiều công đoạn của quá trình sản xuất; sự giàu có của các nhà tư bản không phải do bóc lột sức lao động của công nhân mà do máy móc đem lại. Hơn nữa, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, hầu hết các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn đều là công ty cổ phần, trong đó không ít công nhân, người lao động cũng có cổ phần, trong thu nhập, ngoài tiền công lao động còn có cổ tức do cổ phần đem lại. Giai cấp công nhân được hữu sản hóa, không còn là giai cấp vô sản; nhiều người lao động làm thuê, nhất là ở các lĩnh vực quản lý, lĩnh vực có trình độ công nghệ cao không những không còn bị bần cùng hóa mà đã trở thành tầng lớp trung lưu của xã hội. Công ty cổ phần đã làm cho sở hữu tư nhân được xã hội hóa, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản xã hội, chủ nghĩa tư bản dân chủ, hoàn toàn khác với chủ nghĩa tư bản tư nhân, bóc lột tàn bạo trước đây.
Vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước tư bản đối với nền kinh tế đã giúp chủ nghĩa tư bản khắc phục, hạn chế được những tác động tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường, tạo ra môi trường ổn định, thuận lợi cho hoạt động kinh tế; đồng thời, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhà nước tư bản vừa can thiệp vào lĩnh vực tiền công, tiền lương, bảo đảm điều kiện làm việc cho người lao động, điều hòa quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, vừa có những quy định hướng các doanh nghiệp thực hiện các trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Bằng các chính sách phân phối lại, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bằng phát triển cung cấp dịch vụ công, nhà nước tư sản đã quan tâm hỗ trợ cải thiện đời sống cho các đối tượng xã hội có thu nhập thấp, có hoàn cảnh khó khăn... chủ nghĩa tư bản hiện đại đã là chủ nghĩa tư bản nhân văn, nhân đạo, chủ nghĩa tư bản có ý thức; trong đó, có những mục tiêu cao đẹp hơn chỉ là tìm kiếm lợi nhuận, đã có cơ chế để giải quyết hài hòa lợi ích của các bên có liên quan nhà nước, nhà tư bản, người lao động; việc xây dựng môi trường văn hóa trong doanh nghiệp, các công ty, tập đoàn kinh tế, trong cộng đồng xã hội và việc bảo vệ môi trường được coi trọng. Từ đó, các quan điểm này cho rằng chủ nghĩa tư bản sẽ còn tiếp tục tồn tại, còn tiềm năng phát triển và sẽ tồn tại vĩnh viễn, là chế độ xã hội cuối cùng, cao nhất của con người.
3. Không thể phủ nhận trong những năm qua, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới; trong đó, có những yếu tố có thể xem là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng xã hội tư bản. Nhưng có thể khẳng định rằng những điều chỉnh, những đặc điểm mới, yếu tố mới đó vẫn chưa phá vỡ được khuôn khổ, nền tảng của chế độ tư bản chủ nghĩa, vẫn chỉ là những điều chỉnh, những sự chuyển biến trong khuôn khổ của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền trong thời đại toàn cầu hóa, độc quyền không chỉ trong phạm vi một quốc gia, mà trên quy mô toàn cầu. Thị trường toàn cầu ngày nay do một số tập đoàn tư bản độc quyền chi phối, như: thị trường máy bay do hai công ty Boing và AirBus chia nhau thị phần, thị trường điện thoại di động, các thiết bị điện tử, chủ yếu do các công ty SamSung, Apple, IBM thống trị...
- Theo đuổi lợi nhuận đã, đang và sẽ là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản; sự giàu có của các nhà tư bản là từ nguồn lợi nhuận này. Nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất. Bóc lột vẫn là bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Quan điểm cho rằng máy móc cũng tạo ra giá trị, tạo ra sự giàu có của nhà tư bản không phải là mới, đã từng bị phê phán. Sai lầm của quan điểm này là ở chỗ không hiểu bản chất của “của cải”, của “tài sản” trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong xã hội tư bản. Đối với con người và xã hội nói chung, ở mọi giai đoạn phát triển, “của cải”, “tài sản” là tất cả những sản phẩm vật chất có ích, cần thiết cho cuộc sống, cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người, là đất, nước, lúa, gạo, các công cụ, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt... Song, đối với nhà tư bản, để thực hiện mục đích làm giàu, sản xuất hay kinh doanh cái gì, hàng hóa gì không quan trọng, đấy chỉ là phương tiện để khi bán đi có được nhiều tiền hơn. Tiền, một hình thái của giá trị, mới thật sự là tài sản, của cải trong xã hội tư bản, có tiền là có thể có được mọi sản phẩm, mọi tài sản vật chất khác. Máy móc cũng là sản phẩm của lao động, nó có giá trị, khi sử dụng máy móc vào sản xuất, giá trị của máy móc được chuyển dần vào sản phẩm. Máy móc có năng suất rất cao, sản xuất ra được rất nhiều sản phẩm nên giá trị chuyển từ máy móc sang mỗi sản phẩm rất nhỏ. Nhưng giá trị của một hàng hóa không phải do chi phí sản xuất riêng, cá biệt của một người sản xuất ra hàng hóa đó quyết định mà là mức chi phí trung bình của xã hội (của nhiều người cùng sản xuất hàng hóa đó) cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Vì vậy, nhà tư bản bán hàng hóa do sử dụng máy móc tạo ra theo giá trị (giá cả) chung, hơn nữa còn theo giá cả độc quyền do mình tự định ra (vì công ty có vị trí độc quyền), sẽ thu được giá trị lớn hơn nhiều giá trị đã bỏ ra. Đây là nguồn gốc đem lại sự giàu có của nhà tư bản. Giá trị tăng thêm này không phải do máy móc tạo ra mà do lao động xã hội tạo ra, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đây là động lực thúc đẩy sử dụng máy móc trong chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, vẫn là chế độ bất công. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, một bộ phận công nhân có cổ phiếu, cổ phần ở các công ty tư bản. Số lượng công nhân có cổ phiếu có thể đông, nhưng số lượng cổ phiếu mỗi người có đều rất nhỏ, nên thực tế tổng số cổ phiếu mà người công nhân có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cổ phiếu của các công ty tư bản. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, chính phủ Mỹ thực hiện “kế hoạch phát triển sở hữu cổ phiếu của người lao động làm công” (ESOP), lúc cao nhất gần 40% người lao động làm công Mỹ có cổ phiếu, nhưng tổng giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu chỉ chiếm trên 1% giá trị cổ phiếu mà các công ty phát hành. Số lượng ít, phân tán, người lao động hoàn toàn không có tiếng nói gì ảnh hưởng tới hoạt động của các công ty. Ở các nước tư bản phát triển, những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý cấp cao, nhờ có trình độ chuyên môn cao (công nhân cổ trắng), cùng với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, tạo thành tầng lớp trung lưu của xã hội chỉ là một bộ phận nhỏ trong lực lượng làm thuê và dù nhà nước còn có các chính sách phân phối lại thu nhập, chính sách bảo hiểm, trợ cấp, cung cấp nhiều dịch vụ công, hỗ trợ những đối tượng khó khăn, nhưng số lượng những người có mức sống thấp, dưới mức nghèo khổ, những người thất nghiệp, người vô gia cư, người nhập cư ở những nước này còn rất lớn. Hơn nữa, để đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, không thể chí thấy khu vực “trung tâm” là các nước kinh tế phát triển, mà cần phải thấy cả khu vực “ngoại vi” của nó là những nước đang phát triển, nước nghèo, kém phát triển, nơi có tỷ lệ người nghèo, đói còn rất cao. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Liên hợp quốc, tài sản của 225 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhập, tài sản của hơn 2,5 tỷ người nghèo trên thế giới. Cuộc khủng hoảng do đại dịch Covid-19 hiện nay đang làm bộ lộ rất nhiều về sự phân hóa xã hội ở các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là chủ nghĩa tư bản nhân đạo, nhân văn như một số quan điểm đề cao nó.
- Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không ngăn chặn, tránh được các cuộc khủng hoảng kinh tế gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản, với mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự can thiệp, điều tiết của nhà nước đã giúp chủ nghĩa tư bản hiện đại tránh được các cuộc khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ của các giai đoạn trước, nhưng lại làm xuất hiện những hình thức khủng hoảng mới, khủng hoảng cơ cấu xảy ra ở một số ngành, lĩnh vực, mà điển hình nhất là hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ các năm 1973, 1979 đã đẩy các nước tư bản phát triển và kinh tế thế giới vào tình trạng vừa lạm phát vừa đình đốn (Stagflation), suy thoái đến đầu những năm 1980. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á những năm 1997-1998 làm sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá trị đồng tiền, phá sản hàng loạt doanh nghiệp của các nước Châu Á, ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008-2009, được xem là cuộc khủng hoảng lớn nhất từ sau cuộc khủng hoảng 1929-1933 đến nay, làm sụp đổ hàng loạt ngân hàng lớn ở các nước tư bản phát triển, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, buộc chính phủ các nước trên thế giới phải có những biện pháp khẩn cấp, bơm hàng trăm tỷ USD để cứu vãn các ngân hàng, thị trường chứng khoán, phục hồi kinh tế. Sau khủng hoảng tài chính 2008-2009, một loạt nước tư bản phát triển: Ailen, Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha lại rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, đứng trước nguy cơ vỡ nợ phải yêu cầu sự trợ giúp của Liên minh Châu Âu (EU), của ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... Khủng hoảng kinh tế đã diễn ra liên tiếp, đẩy nền kinh tế vào suy thoái, làm tăng nạn thất nghiệp, sự căng thẳng xã hội. Đồng thời, chạy theo mục tiêu lợi nhuận tối đa, chủ nghĩa tư bản hiện đại còn là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về môi trường sinh thái và biến đổi khí hậu toàn cầu, đe dọa sự sống của con người trên trái đất. Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là chế độ xã hội tạo được sự phát triển ổn định, hài hòa, bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường.
- Trong chủ nghĩa và bản hiện đại, những mâu thuẫn gắn liền với bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại, dù có những hình thức biểu hiện mới. Đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa tư bản với tư bản, giữa các cường quốc tư bản với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển. Để có lợi nhuận tối đa, thì đối với nhà tư bản, thời gian lao động của công nhân càng dài càng tốt, cường độ lao động càng cao càng tốt, chi phí tiền lương, tiền công, trang bị bảo hộ lao động, phúc lợi cho người lao động càng ít càng tốt, do đó, luôn tìm mọi cách, kể cả “lách luật” để làm điều này một cách tinh vi. Sự hình thành đội ngũ công nhân “cổ trắng” trong thời đại cách mạng công nghệ và các chính sách điều tiết của nhà nước có góp phần cải thiện đời sống cho một bộ phận công nhân ở các “trung tâm” phát triển, nhưng tư bản lại chuyển đầu tư sang các vùng “ngoại vi” kém phát triển để tận dụng lao động giá rẻ, tạo nên tình trạng thất nghiệp ở khu vực trung tâm. Tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội ngày càng tăng cả ở khu vực “trung tâm” và “ngoại vi” và việc bổ sung vào đội ngũ những người lao động làm thuê cả những người có trình độ cao làm cho mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong chủ nghĩa tư bản hiện đai sẽ ngày càng phát triển.
Ngày nay, mâu thuẫn giữa các công ty, tập đoàn tư bản, các nước tư bản phát triển với nhau trong việc giành giật thị trường tiêu thụ, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, các phát minh, sáng chế, thành tựu khoa học công nghệ, các nhân lực chất lượng cao... vẫn diễn ra rất gay gắt. Sự ra đời, hoạt động của các tổ chức toàn cầu, khu vực, như WTO, G7, G20, APEC... đã tháo gỡ, giải quyết được một số mâu thuẫn, bất hòa giữa các nước, nhưng không giải quyết được căn bản vấn đề. Sự bế tắc của nhiều vòng đàm phán của WTO, sự kém hiệu quả của thể chế G7, G20... buộc các nước phải tự lo cho mình, phải ký kết các hiệp định song phương, đa phương để bảo vệ lợi ích của mình. Ngày nay, các nước tư bản phát triển không xâm lược, biến các nước nghèo, kém phát triển thành thuộc địa để bóc lột, nô dịch như thời kỳ chủ nghĩa thực dân cũ và mới như trước đây, nhưng mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước nghèo, kém phát triển, đang phát triển vẫn rất gay gắt. Quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với các nước kém phát triển, đang phát triển thể hiện bên ngoài như những quan hệ bình đẳng, thỏa thuận từ cả hai phía, nhưng thực chất là quan hệ bất bình đẳng. Các nước tư bản phát triển giàu có, có nguồn lực tài chính lớn, trình độ khoa học công nghệ cao, nắm độc quyền các bí quyết công nghệ, thương hiệu sản phẩm... xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển, kém phát triển không phải với mục tiêu hỗ trợ phát triển các nước này mà để mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tài nguyên, nguồn lao động rẻ, chuyển giao những máy móc thiết bị, những công đoạn những ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường cho những nước này, với giá cả độc quyền do họ chi phối; đồng thời vẫn sử dụng các biện pháp chống bán phá giá, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan (như nguồn gốc xuất sứ, về lao động, điều kiện sản xuất, về vệ sinh an toàn...) để cản trở xuất khẩu hàng hóa của nước đang phát triển, kém phát triển vào nước họ... Chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa phải là xã hội công bằng, bình đẳng mà con người hướng tới.
Thay thế chế độ phong kiến, chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển là một bước tiến lớn trong lịch sử của nhân loại. Chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường, cơ chế cạnh tranh, mục tiêu lợi nhuận đã tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, thu hút tất cả các nước trên thế giới vào một thị trường chung, tham gia vào sự phân công lao động và hợp tác, liên kết kinh tế trên quy mô toàn cầu. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra khối lượng của cải vật chất to lớn, vượt xa tất cả các chế độ xã hội trước đó cộng lại. Chủ nghĩa tư bản trong hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay đã có nhiều điều chỉnh, thay đổi để vượt qua khó khăn, thách thức, tồn tại và phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh tới chủ nghĩa tư bản độc quyền, độc quyền nhà nước, ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại, toàn cầu hóa, nhưng vẫn mang trong mình những mâu thuẫn không thể giải quyết nếu không phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại, với những điều chỉnh mới, sở hữu cổ phần với sự tham gia ngày càng nhiều của người lao động, phát triển các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác tự quản của người lao động, các chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội của nhà nước là những thành quả đấu tranh của người lao động trong các nước tư bản phát triển. Đây là các yếu tố được xem là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội hình thành trong lòng chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã bành trướng ra quy mô toàn cầu, giới hạn cuối cùng mà tư bản có thể bành trướng. Chủ nghĩa tư bản không phải, không thể là chế độ xã hội tồn tại vĩnh viễn, cuối cùng của loài người. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đưa khoa học công nghệ thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế, vai trò của tư bản đã giảm xuống đối với quá trình sản xuất, đang thúc đẩy quá trình phủ định chủ nghĩa tư bản, thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ xã hội mới cao hơn, trên cơ sở kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục, xóa bỏ được những mâu thuẫn, những giới hạn của chủ nghĩa tư bản cản trợ sự phát triển của nhân loại theo hướng tiến bộ. Đây là tất yếu khách quan của lịch sử.
4. Kiến nghị:
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về thế giới đương đại. Ngày nay, tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế giới diễn biến, thay đổi hết sức nhanh chóng, phức tạp; rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng, của nhân loại nói chung, như biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa, ô nhiễm, nghèo đói, dịch bệnh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, các mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản... Cần phải được nghiên cứu, đánh giá để hiểu đúng, đầy đủ về chủ nghĩa tư bản hiện đại, dự báo đúng xu hướng vận động phát triển của nó và rút ra những bài học, kinh nghiệm bổ ích cho sự phát triển kinh tế đất nước.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu về mô hình Xô viết của chủ nghĩa xã hội trong hơn 70 năm tồn tại; đánh giá đúng những thành công và thất bại, những đóng góp và ảnh hưởng của nó trong lịch sử, nhất là nguyên nhân dẫn tới sụp đổ; những bài học lịch sử, những vấn đề nhận thức lý luận rút ra từ sự tồn tại, phát triển, thành công và thất bại của mô hình này.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trên cơ sở đó từng bước xây dựng, hình thành lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế phát triển thấp, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta.
Làm tốt những nhiệm vụ này sẽ cung cấp cơ sở khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, nhân dân ta, cho việc bảo vệ, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sẽ là một sự đóng góp có ý nghĩa của Việt Nam cho phong trào cách mạng của nhân dân thế giới./.
Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch HĐLLTW