Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Mô hình tăng trưởng bao trùm và những vấn đề đặt ra với thể chế phát triển của Việt Nam

Ngày phát hành: 07/02/2019 Lượt xem 6622


Trong suốt ba thập niên kể từ sau Đổi Mới, Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận trên nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa. Việc chuyển đổi mô hình kinh tế từ bao cấp kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giúp Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo trong một thời gian tương đối ngắn. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tăng cường mở rộng quan hệ thương mại với hầu hết các quốc gia trên thế giới, thu hút được một lượng lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã được chuyển dịch dần theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp theo cả hai tiêu chí giá trị sản lượng và số lượng lao động. Cơ sở hạ tầng trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, tốc độ đô thị hóa gia tăng nhanh chóng, và chất lượng cuộc sống của người dân đã được cải thiện trên nhiều khía cạnh.

 


Tuy nhiên, cũng giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới, sau mỗi giai đoạn tăng trưởng, bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã thay đổi, những vấn đề mới nảy sinh, những cuộc suy thoái kinh tế xuất hiện làm bộc lộ rõ hơn những điểm yếu trong mô hình tăng trưởng cũ, và do vậy Việt Nam cần điều chỉnh lại mô hình tăng trưởng kinh tế, lựa chọn một con đường tăng trưởng với những đặc điểm mới, những ưu tiên mới và cách thức mới. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia đi trước, bao gồm cả những quốc gia phát triển và đang phát triển cho thấy, mô hình tăng trưởng bao trùm, trong đó nhấn mạnh tới sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các cơ hội tăng trưởng cho mọi người trong xã hội là một mô hình tăng trưởng phù hợp hơn cả cho các quốc gia, ít nhất là trong một vài thập kỷ tới. 
Bài viết này sẽ giới thiệu tổng quan về mô hình tăng trưởng bao trùm và một số vấn đề đặt ra với thể chế phát triển của Việt Nam.
I. Quan niệm về tăng trưởng bao trùm
Mô hình tăng trưởng kinh tế truyền thống với mục tiêu tăng trưởng nhanh đã dần bộc lộ những khiếm khuyết của nó khi vấn đề nghèo đói không phải luôn được cải thiện, thậm chí còn xấu đi, bất chấp nền kinh tế có tăng trưởng. Ngoài ra, sự bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội có thể gia tăng khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Nghiên cứu của Banerjee và Duflo (2003) sử dụng phương pháp phi tham số để nghiên cứu dữ liệu chéo giữa các quốc gia đã chỉ ra rằng ảnh hưởng của bất bình đẳng đến tăng trưởng có dạng hình chữ U ngược theo nghĩa khi bất bình đẳng thu nhập còn ở mức thấp thì các nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh hơn bằng cách chấp nhận bất bình đẳng cao hơn, tuy nhiên bất bình đẳng thu nhập quá cao (vượt qua một ngưỡng nhất định) sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế. Và rõ ràng, phúc lợi xã hội cũng không chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập bình quân mà còn phụ thuộc vào vào mức độ bình đẳng trong xã hội.
Mô hình tăng trưởng bao trùm hướng tới sự bền vững trong dài hạn, trong đó đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm mục tiêu cuối cùng là phát triển con người. Mô hình tăng trưởng bao trùm nhấn mạnh đến sự tham gia, chứ không chỉ là kết quả. Mọi người được bình đẳng tham gia đóng góp và chia sẻ lợi ích có được từ tăng trưởng kinh tế. Thay vì chỉ nhằm vào các nhóm dân cư có mức thu nhập thấp hơn như mô hình tăng trưởng vì người nghèo, mô hình tăng trưởng bao trùm hướng tới việc bao quát tất cả các thành viên trong xã hội, bao gồm cả người nghèo, cận nghèo, trung lưu và người giàu; cả nam và nữ; cả dân tộc đại đa số với dân tộc thiểu số; cả các cộng đồng tôn giáo khác nhau; cả những người làm việc trong khu vực nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. 
Những giá trị cốt lõi căn bản của mô hình tăng trưởng bao trùm được thể hiện ở các khía cạnh như sau:
1. Tăng trưởng thu nhập đầu người là yếu tố quan trọng hàng đầu để có thể mang lại tăng trưởng bao trùm. Việt Nam là một quốc gia đang ở ngưỡng thu nhập trung bình thấp, do vậy cơ hội để đạt được tăng trưởng cao là tương đối rộng mở. Tăng trưởng nhanh chính là cơ sở để tạo ra thêm nhiều cơ hội kinh tế cho mọi người trong xã hội. Thúc đẩy tăng trưởng thu nhập đầu người, trong điều kiện các tiêu chí khác trong mô hình tăng trưởng bao trùm vẫn không thay đổi hoặc chuyển dịch theo hướng tích cực, thì chắc chắn sẽ mang lại một sự bao trùm trong tăng trưởng. Thậm chí, ngay cả khi một số tiêu chí khác trong mô hình tăng trưởng bao trùm bị thay đổi theo chiều hướng xấu thì việc có được tăng trưởng thu nhập đầu người cao vẫn có thể mang lại một sự bao trùm trong tăng trưởng thông qua việc sử dụng kết hợp thêm các chính sách khác để bù đắp cho những tiêu chí bị thay đổi theo chiều hướng bất lợi.
2. Gia tăng việc làm, đặc biệt là việc làm có năng suất cao là một thành phần quan trọng trong mô hình tăng trưởng bao trùm. Điều này ít khi được nhắc đến hoặc nếu có nhắc đến thì tương đối mờ nhạt trong các mô hình tăng trưởng trước đây. Chang (2014) khi thảo luận về tăng trưởng bao trùm cho rằng số đông người nghèo làm việc trong các doanh nhiệp nhỏ và vừa. Nếu tăng trưởng việc làm hay các cơ hội việc làm đến từ nơi họ sinh sống thì sẽ dễ dàng hơn để người nghèo nhận được lợi ích từ tăng trưởng. Kinh nghiệm của các nước Đông Á cho thấy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giúp giảm bất bình đẳng thu nhập. Trong khi tăng trưởng kinh tế là quan trọng để giảm nghèo, thì tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ là đặc biệt quan trọng, và tăng trưởng trong những ngành thâm dụng lao động đòi hỏi kỹ năng thấp có đóng góp lớn vào giảm nghèo, vì đây là khu vực có nhiều dư địa để thu hút lao động thiếu kỹ năng và tăng năng suất.


3.Nâng cao năng lực của người lao động là một yếu tố quan trọng giúp gia tăng việc làm, đặc biệt là việc làm có năng suất cao và đóng góp tích cực vào tăng trưởng bao trùm. Một quốc gia có chất lượng lao động tốt, bao gồm cả trình độ, sức khỏe, và ý thức người lao động thì sẽ tạo ra sức hút đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trong những lĩnh vực sáng tạo, công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn. Sự xuất hiện nhiều hơn của những doanh nghiệp như vậy sẽ tạo ra thêm nhiều việc làm, góp phần lan tỏa tri thức và tiếp tục gia tăng hơn nữa chất lượng nguồn lao động. Việc chỉ chú tâm vào phía cầu lao động, hoặc thu hút doanh nghiệp dựa trên thế mạnh nhân công giá rẻ cùng các nguồn lực sản xuất khác như đất đai, cơ sở hạ tầng với chi phí thấp không còn phù hợp trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đã có những thay đổi và bản thân nền kinh tế Việt Nam cũng đã bước vào một giai đoạn phát triển mới. Song hành với những lực hút dựa trên lợi thế cạnh tranh đặc trưng của quốc gia cùng với các chính sách kinh tế khác, mô hình tăng trưởng bao trùm cho rằng mỗi quốc gia cần phải cải thiện năng lực người lao động để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, thích ứng với những yêu cầu ngày càng cao từ các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế bước sang giai đoạn phát triển cao hơn. Con đường để nâng cao năng lực người lao động chính là từ khả năng cung cấp các dịch vụ giáo dục, chăm sóc sức khỏe tốt cũng như định hướng đúng đắn của xã hội về tầm quan trọng của học vấn, sức khỏe, và ý thức làm việc đối với sự phát triển của bản thân mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Trong mô hình tăng trưởng bao trùm, giáo dục và y tế được xem là một thang đo quan trọng phản ánh mức độ bình đẳng về cơ hội mà người dân quốc gia đó đang được thụ hưởng. Nó sẽ định hình nên những năng lực cơ bản nhất của con người và giúp họ có thể tham gia đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế và từ đó có thể được thụ hưởng thành quả từ quá trình tăng trưởng kinh tế này. Song song với việc phát triển năng lực, bao gồm thể lực và trí lực của con người, thì việc định hình tốt ý thức của con người cũng đóng góp quan trọng vào chất lượng nguồn lao động. Ba yếu tố thể lực, trí lực và ý thức cần phải hòa quyện và thúc đẩy nhau phát triển để tạo ra một nguồn lao động có chất lượng. Thiếu một trong ba yếu tố đó sẽ không thể hình thành một nguồn lao động tốt được.

 

.  


4. Giảm nghèo vẫn tiếp tục là một nội dung không thể bỏ qua trong mô hình tăng trưởng bao trùm. Quá trình tăng trưởng sẽ không thể gọi là bao trùm nếu nó không góp phần giảm nghèo, đặc biệt là nghèo tuyệt đối trong nền kinh tế. Các ngưỡng nghèo khác nhau được sử dụng để đánh giá kết quả giảm nghèo như nghèo lương thực và nghèo chung bao gồm cả lương thực và các hàng hóa phi lương thực khác. Tiêu chí giảm nghèo có quan hệ khá chặt với tiêu chí gia tăng việc làm và việc làm có năng suất cao. Tăng trưởng mà tạo thêm nhiều việc làm, đặc biệt là nếu việc làm có năng suất cao thì sẽ góp phần tích cực vào giảm nghèo. Tuy nhiên, hai tiêu chí này vẫn có những điểm riêng. Nếu như gia tăng việc làm lại tập trung vào các nhóm không nghèo trước đó thì hiệu quả giảm nghèo có thể không thật sự rõ rệt. Ngược lại, nếu như có sự chuyển dịch việc làm từ những nhóm không nghèo trước đây sang những nhóm nghèo thì hiệu quả giảm nghèo sẽ đạt được nhưng tác động cải thiện việc làm có thể sẽ không xuất hiện. Thành công trong giảm nghèo sẽ đóng góp rất nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bởi những người thoát nghèo có thể nâng cao cơ hội phát triển trong tương lai thông qua các hoạt động đầu tư vào giáo dục, tư liệu sản xuất vật chất, điều mà họ không thể hoặc rất khó thực hiện được khi còn đang sống dưới ngưỡng nghèo. Chiến lược giảm nghèo hiệu quả phải bao gồm hai nhánh, thứ nhất là tăng trưởng kinh tế theo hướng giảm nghèo và bao phủ rộng khắp được dựa trên các biện pháp kích thích khu vực tư nhân để tạo thêm các cơ hội việc làm; và thứ hai là đầu tư công vào giáo dục phổ thông, y tế, và cơ sở hạ tầng. Hai nhánh này cần được kết hợp với mạng lưới an sinh xã hội để bảo vệ cho những người nghèo và dễ bị tổn thương.
5. Thu hẹp bất bình đẳng là một nội dung được nhấn mạnh trực tiếp trong mô hình tăng trưởng bao trùm. Điều này không  được xem xét một cách chính thức mà thường chỉ được nhắc đến như một chỉ tiêu xã hội độc lập trong mô hình tăng trưởng trước đây. Tuy nhiên, dưới cách tiếp cận của mô hình tăng trưởng bao trùm, sẽ rất khó có thể duy trì sự tăng trưởng cao và bền vững nếu như để bất bình đẳng gia tăng. Tăng trưởng bao trùm bao gồm việc tạo ra cả cơ hội và khả năng tiếp cận cơ hội bình đẳng với tất cả mọi người và doanh nghiệp trong mọi loại hình, khu vực, ngành nghề tiếp cận cơ hội và nguồn lực tăng trưởng. Sự bình đẳng về tiếp cận cơ hội sẽ góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và giảm bất công bằng xã hội. Khi đó, khả năng tồn tại của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân có thể đóng góp cho ngân sách nhà nước tốt hơn và tận dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn.
Song hành với bình đẳng về tiếp cận nguồn lực, việc phân phối kết quả tăng trưởng một cách công bằng giữa các cá nhân và doanh nghiệp cũng có thể đóng góp tích cực trở lại vào quá trình tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế, qua đó đạt được mục tiêu tăng trưởng bao trùm. Như CAFOD (2014) đã nêu, tăng trưởng bao trùm cần đảm bảo rằng các thực thể trong nền kinh tế, bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp được chia sẻ một cách công bằng những lợi ích, của tăng trưởng, tăng trưởng bao trùm hàm ý sự tham gia và chia sẻ lợi ích bởi nếu chỉ có tham gia mà không chia sẻ lợi ích thì sẽ khiến cho kết quả tăng trưởng là không công bằng. Việc phân phối kết quả tăng trưởng chênh lệch quá mức sẽ hình thành nên những nhóm thiểu số có tầm ảnh hưởng quá lớn trong nền kinh tế, và nhóm này có thể quay trở lại tác động tiêu cực lên sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận quyền lực, và lúc này hiển nhiên mức độ bao trùm của tăng trưởng sẽ bị tổn hại (OECD, 2015).
6. Các tổ chức quốc tế thường coi an sinh xã hội như một chiều kích khác của khung chiến lược tăng trưởng bao trùm. Đây là một khía cạnh cần được đặc biệt nhấn mạnh vì an sinh xã hội sẽ giúp những người nghèo cùng cực và nghèo kinh niên có được mức sống tối thiểu, đồng thời cũng giúp nhóm cận nghèo và nhóm trung lưu lớp dưới, những người vốn chỉ có mức thu nhập đủ sống, có được một hàng rào bảo vệ để tránh bị tổn thương. An sinh xã hội tạo điều kiện để các hộ gia đình yên tâm đầu tư cho tương lai, qua đó giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 
7. Phát triển hệ thống tài chính theo hướng phủ rộng là một thành phần quan trọng trong mô hình tăng trưởng bao trùm. Tiếp cận nguồn lực tài chính đảm bảo khả năng hiện thực hóa các cơ hội kinh tế đến với các cá nhân và doanh nghiệp. Sự phát triển lành mạnh và chắc chắn của hệ thống tài chính sẽ đóng vai trò then chốt nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Nó có thể giúp giảm nghèo một cách gián tiếp thông qua tăng trưởng kinh tế cũng như trực tiếp tác động lên các nhóm nghèo và yếu thế thông qua các khoản hỗ trợ tài chính trực tiếp.
Một hệ thống tài chính bao trùm sẽ đảm bảo cho tất cả những người nghèo và nhóm yếu thế có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính mà không phải gặp bất kỳ rào cản mang tính phân biệt nào. Điều đó cho phép họ tiết kiệm và vay mượn để tích lũy của cải, đầu tư vào giáo dục và hoạt động kinh doanh, qua đó giúp nâng cao mức sống của họ. Các chương trình tín dụng vi mô là rất cần thiết để góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Các chương trình này giúp mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cũng như khôi phục khả năng sinh kế đối với các hộ thu nhập thấp, những hộ có chỉ số xếp hạng tín dụng thấp. Việc thúc đẩy sự tham gia của xã hội vào chương trình tín dụng vi mô sẽ thể hiện bản chất bao trùm của quá trình tăng trưởng và góp phần thúc đẩy không chỉ các hoạt động tín dụng vi mô mà còn thúc đẩy sự phát triển của vốn xã hội và sự kết dính trong xã hội, những yếu tố vô cùng quan trọng góp phần thúc đẩy tính chất bao trùm của tăng trưởng.
II. Một số vấn đề đặt ra với hệ thống thể chế nhằm phát triển mô hình tăng trưởng bao trùm ở Việt Nam
Thể chế vững mạnh và chính sách tốt là yếu tố quan trọng đảm bảo cho tính chất bao trùm trong phát triển kinh tế và xã hội. Những bất công về mặt kinh tế và xã hội thường là sự phản chiếu cho việc ban hành những chính sách tồi, cơ chế quản trị yếu kém, một nền tảng thể chế/pháp lý có nhiều khiếm khuyết, từ đó càng gia tăng các khuyết tật của thị trường. Để xây dựng thành công mô hình tăng trưởng bao trùm, hệ thống thể chế ở Việt Nam cần được hoàn thiện theo các định hướng sau:
1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và các quy định theo hướng cụ thể, công khai và minh bạch, ổn định và tính độc lập cao
Một hệ thống luật pháp và quy định nhiều kẽ hở, mập mờ chính là cơ hội rất tốt cho sự phát triển các hoạt động nhũng nhiễu và trục lợi, từ đó khiến cho chi phí phi chính thức của doanh nghiệp gia tăng, cản trở sự phát triển của những doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, bởi đây là nhóm doanh nghiệp thường ít có tiếng nói và quyền lực ảnh hưởng trong xã hội để có thể phản kháng lại những hành vi sai trái nêu trên. Đồng thời, nó cũng dễ tạo điều kiện cho một số ít doanh nghiệp có quan  hệ “thân hữu” với những nhóm quyền lực trong xã hội nắm quyền kiểm soát, và từ đó gây ra sự bất bình đẳng lớn trong tiếp cận nguồn lực, và tất yếu cũng là bất bình đẳng trong phân phối kết quả. Chính phủ nên cải cách hệ thống luật pháp và các quy định theo hướng đơn giản các thủ tục hành chính, xóa bỏ dần việc cấp phép mà thay thế bằng các điều kiện cụ thể. Việc xóa bỏ dần các giấy phép và thay thế bằng các điều kiện cụ thể để tham gia thị trường sẽ tạo ra sự minh bạch và bình đẳng trong cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp có thể đáp ứng được điều kiện đã được quy định. 
Bên cạnh đó, hệ thống luật pháp và quy định cũng cần phải đảm bảo tính ổn định. Sự bất ổn của chính sách sẽ là một thách thức rất lớn đối với những doanh nghiệp muốn hoạt động và gắn bó lâu dài, góp phần mang lại sự thịnh vượng bền vững cho người dân Việt Nam, nhưng lại là một sân chơi lý tưởng cho những doanh nghiệp hoạt động mang tính chất trục lợi, vì những mục tiêu ngắn hạn, và thông thường là không mang lại nhiều giá trị cho đất nước. 
Tính độc lập khi xây dựng hệ thống luật pháp và quy định cũng là một điều rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bao trùm. Nếu như cơ quan xây dựng hệ thống luật pháp và các quy định cũng như cơ quan phê duyệt các luật định này không có được sự độc lập, vẫn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích nhỏ trong xã hội thì cơ hội tiếp cận các nguồn lực và hệ quả là phân phối kết quả sẽ không thể bình đẳng được, và như vậy điều kiện tiên quyết để đạt được tăng trưởng bao trùm sẽ không còn đạt được nữa. 


2. Ba khâu thiết kế quy định/chính sách, thực hiện quy định/chính sách, và đánh giá tác động và hiệu quả của quy định/chính sách cần phải được thực hiện đầy đủ, đồng bộ, xuyên suốt trên một khung phương pháp nhất quán và công khai
Chu kỳ của một luật định hay chính sách bao gồm ba bước thiết kế, thực hiện và đánh giá. Tất cả các khâu này cần phải được thực hiện đồng bộ và nhất quán với nhau để đạt được các mục tiêu đã đề ra. 
Tăng trưởng bao trùm mang tính chất đa mục tiêu nên Chính phủ cũng cần tiếp cận theo hướng toàn diện, các chính sách được thiết kế cần phải mang tính bổ trợ cho nhau cũng như Chính phủ Trung ương cần tạo lập cơ chế kết nối tốt với các chính quyền địa phương, với các bộ. Chính phủ cần thúc đẩy sự tham gia một cách thực chất của các bên có liên quan, ngăn chặn tình trạng trục lợi trong quá trình ra quyết định, khuyến khích việc chỉ ra những ảnh hưởng bất lợi tới tăng trưởng bao trùm mà chính sách gây ra. 
Trong thời gian qua bộ máy nhà nước, đặc biệt là ở cấp trung ương dường như mới chú trọng nhiều vào khâu thứ nhất, tức là ban hành ra các luật định và chính sách. Việc tổ chức thực hiện, giám sát thực hiện còn rất nhiều yếu kém, khiến cho các cơ quan trung ương luôn phải than phiền về vấn đề trên bảo dưới không nghe. Khâu cuối cùng về đánh giá tác động và hiệu quả của các luật định và chính sách thậm chí còn ít được chú ý hơn nữa, và do vậy các nhà lãnh đạo khó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để giúp giảm thiểu những sai lầm tương tự có thể lặp lại trong quá khứ.
Chính phủ nên kêu gọi sự tư vấn và tham gia của mọi người tại mỗi giai đoạn của chu kỳ lập chính sách. Tư duy theo hướng mở này của Chính phủ sẽ giúp mang lại những chính sách có hiệu quả hơn, phục vụ đúng đối tượng mục tiêu hơn và trách nhiệm giải trình được thực thi tốt hơn. Quá trình này cần có sự tham gia chính thức của nhiều bên, đặc biệt là những nhóm yếu thế có liên quan. Đồng thời, Chính phủ cũng cần cung cấp thông tin để xin ý kiến đóng góp sớm hơn, cũng như cần có cơ chế tiếp nhận và phản hồi thông tin. Ngăn chặn việc lợi dụng ban hành các luật định và chính sách là một yếu tố cực kỳ quan trọng để có thể đạt và duy trì được sự bao trùm của tăng trưởng. Chính phủ phải có những quy định rõ ràng cũng như xây dựng các chính sách theo hướng để đảm bảo tất cả các nhóm xã hội, các vùng được tiếp cận, sử dụng và phản hồi đối với các dịch vụ xã hội và các hoạt động khác. Cơ chế tham gia và có phản hồi là rất quan trọng nhằm tạo dựng một quy trình thiết kế và thực thi chính sách có tính bao trùm. Xây dựng một cơ chế quy định rõ ràng nhằm buộc mọi người phải tôn trọng và thực hiện điều đúng đắn và phải sửa chữa và đền bù cho những sai lầm.
3. Xây dựng hệ thống thang đo đánh giá chất lượng và quy trách nhiệm cụ thể cho từng chính quyền các cấp, từng cơ quan chính phủ 
Hầu hết các luật định và chính sách nhằm mang lại tăng trưởng bao trùm đòi hỏi sự tham gia của nhiều cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước có liên quan. Sự tham gia của nhiều bên sẽ khiến chúng ta cần một cơ chế hợp tác mạnh mẽ giữa các cấp chính quyền và các cơ quan nhà nước có liên quan nếu như muốn đạt được một chu trình luật định và chính sách thành công, từ giai đoạn thiết kế tới thực hiện và đánh giá. Muốn đảm bảo được sự kết dính và trách nhiệm của tất cả các bên trong chu trình này, ngoài việc làm rõ tầm nhìn, quan điểm, các mục tiêu và kế hoạch thực hiện các mục tiêu đó, Nhà nước rất cần tới một hệ thống các thang đo đánh giá mức độ hoàn thành và hiệu quả mà mỗi cấp chính quyền, mỗi cơ quan nhà nước đạt được. Hệ thống các thang đo này cần được các bên thống nhất, nắm bắt rõ, và sử dụng trong thực tiễn. Đó chính là bước khởi đầu để thúc đẩy tất cả các cấp cùng tham gia vào mục tiêu chung này. Với hệ thống thang đo này, những trục trặc và sai sót trong chu trình này sẽ được chỉ ra và quy trách nhiệm cho một bộ phận cụ thể, và như vậy việc khắc phục vấn đề sẽ nhanh chóng và đơn giản hơn. Hơn nữa, hệ thống thang đo cũng là cơ sở để đánh giá chất lượng và năng lực của các cấp chính quyền, của người đứng đầu các cơ quan nhà nước. Nó sẽ buộc những người đứng đầu phải có trách nhiệm tốt hơn trong việc nâng cao hiệu quả công việc mà mình được phân công và chịu trách nhiệm, cung cấp tốt hơn các dịch vụ công, mang lại sự hài lòng lớn hơn cho các doanh nghiệp và người dân nếu như không muốn bị mất uy tín, thậm chí là mất chức do bị đánh giá hoạt động kém. 

 


4. Ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ cao nhất vào bộ máy hành pháp để đảm bảo sự công khai, khả năng kiểm tra của người dân, cũng như thúc đẩy khả năng tương tác, chia sẻ những vấn đề của người dân tới Chính phủ
Chính phủ cần những cách tiếp cận mới để thực thi tốt hơn vai trò quản trị công của mình, tạo lập một thể chế bao trùm và lành mạnh hơn. Những đổi mới về mặt công nghệ trong xã hội, sự phát triển của nền tảng phần mềm và công nghệ thông tin sẽ giúp Chính phủ tiếp cận và sử dụng các công cụ mới này để đạt được mục tiêu của tăng trưởng bao trùm một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn. Những đổi mới về công nghệ này cho phép doanh nghiệp và người dân gia tăng khả năng tiếp cận, nâng cao chất lượng của các dịch vụ công cũng như tăng quyền cho cộng đồng. Với một cơ sở dữ liệu tốt hơn và một phương thức tương tác hiện đại hơn, chúng ta có thể nâng cao được chất lượng lập kế hoạch, quản lý và giám sát các bên tham gia một cách kịp thời, đảm bảo trách nhiệm giải trình của các bên đối với các mục tiêu chung đòi hỏi sự hợp tác và chia sẻ của các bên.
Trước đây, do những hạn chế về hạ tầng thông tin và công nghệ nên thông tin của Chính phủ không thể đi đến được doanh nghiệp và người dân một cách rõ ràng và đầy đủ, và ngược lại những khó khăn, bức xúc hay chỉ là những nguyện vọng, ước muốn của doanh nghiệp và người dân cũng không thể truyền tải đến những người có trách nhiệm trong Chính phủ. Tuy nhiên, trong thời đại số hóa, với một thế giới phẳng thì tất cả những khoảng cách đó hoàn toàn có thể xóa bỏ gần như toàn bộ. Một cơ chế trao đổi thông tin hai chiều thông suốt, đầy đủ, chính xác, thời sẽ đóng góp rất nhiều vào việc phát triển một thể chế bao trùm, nơi mà doanh nghiệp và người dân có thể nắm bắt được đầy đủ những quan điểm, chính sách của Chính phủ cũng như tạo ra một cơ chế phản hồi để giúp chính phủ có thể đánh giá chính xác, nhanh chóng hơn về các tác động của các quy định và chính sách do mình ban hành, qua đó có những điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các quy định và chính sách. Nó cũng sẽ góp phần giảm đi nhiều tình trạng tham nhũng do vấn đề mập mờ thông tin và người tham nhũng không lo sợ việc phản hồi của doanh nghiệp, của người dân lên các cấp cao hơn. Đồng thời, nó cũng rút bớt được rất nhiều chi phí về thời gian, tiền bạc mà doanh nghiệp hay người dân phải bỏ ra để thực thi các yêu cầu ghi trong luật định.
5. Thể chế hóa khung khổ chính sách vĩ mô để hướng tới thiết lập môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, ổn định và hoạt động theo nguyên tắc thị trường. 
Bất ổn kinh tế vĩ mô bên cạnh việc ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế nói chung thì nó còn có ảnh hưởng tiêu cực lệch nhiều hơn về phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các nhóm yếu thế trong xã hội. Điều đó sẽ đi ngược lại tư tưởng chủ đạo của mô hình tăng trưởng bao trùm. Khá nhiều bất ổn kinh tế mà chúng ta gặp phải đến từ việc lạm dụng chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và một số mục tiêu khác. Điểm lại những lần suy thoái kinh tế mà chúng ta gặp phải trong thời gian gần đây mà có nguyên nhân nội tại bên trong nền kinh tế, chúng ta có thể thấy rằng trong giai đoạn trước đó, chính phủ đã theo đuổi một chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng quá mức. Các chính sách này đã ít nhiều mang lại một tốc độ tăng trưởng cao hơn cho nền kinh tế trong ngắn hạn, tuy nhiên cái giá phải trả trong dài hạn dường như đắt đỏ hơn rất nhiều. Thêm vào đó, việc thực hiện chính sách nới lỏng thông thường mang lại lợi ích tập trung cho một số nhóm nhỏ các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế, những người có khả năng ít nhiều chi phối và ảnh hưởng tới chính sách nhằm mang lại lợi ích cho bản thân doanh nghiệp và cá nhân mình. 
Để khắc phục vấn đề này, Nhà nước cần phải tạo lập một khung khổ cho việc điều hành chính sách vĩ mô tuân theo những quy tắc và giới hạn nhất định để ngăn chặn hiện tượng trục lợi chính sách. Các quy tắc về tài khóa như mức thâm hụt ngân sách, mức trần nợ công hay các quy tắc tiền tệ cần phải được chỉ rõ và thiết lập một cơ chế buộc Chính phủ, Ngân hàng Trung ương phải tuân thủ những quy tắc này một cách nghiêm ngặt. Một Quốc hội độc lập và có quyền lực lớn hơn cùng một đội ngũ các đại biểu quốc hội có chất lượng, thực sự đại diện cho người dân, có khả năng phê chuẩn và giám sát việc thực thi các quy tắc tài khóa và tiền tệ của Chính phủ là giải pháp duy nhất để đảm bảo rằng những quy tắc tài khóa và tiền tệ có thể được tuân thủ một cách đúng đắn. Một Ngân hàng nhà nước độc lập hơn với Chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ cũng là điều kiện cần thiết để thúc đẩy việc thực thi các quy tắc tiền tệ. Trong bối cảnh khả năng quản trị công của đất nước chưa thật tốt, nguy cơ trục lợi chính sách vẫn còn cao thì việc xây dựng những quy tắc mang tính pháp lý sẽ là lựa chọn phù hợp hơn cho sự phát triển trung và dài hạn của nền kinh tế. Nó sẽ tạo dựng niềm tin tốt hơn trong giới đầu tư, doanh nghiệp, và người dân về những tuyên bố của các nhà lập chính sách và lộ trình thực hiện chính sách. Tất nhiên, việc tuân thủ quy tắc sẽ hạn chế khả năng linh hoạt thích ứng với các điều kiện nền kinh tế khác nhau trong ngắn hạn, nhưng có lẽ chi phí này vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với lợi ích thu được từ sự ổn định của chính sách và niềm tin mà Chính phủ tạo dựng được đối với các nhà đầu tư về tính kiên định của chính sách trong dài hạn. 
Cùng với việc tạo lập một khuôn khổ ổn định và nhất quán trong việc điều hành chính sách vĩ mô, phương thức điều hành kinh tế của Chính phủ cũng cần điều chỉnh theo hướng tuân thủ theo các nguyên tắc thị trường thay vì sử dụng mệnh lệnh hành chính. Việc điều hành kinh tế theo mệnh lệnh hành chính thông thường chỉ phù hợp trong những điều kiện rất đặc biệt của nền kinh tế, như chiến tranh hay thảm họa, và nó chỉ phát huy tác dụng trong một khoảng thời gian rất ngắn. Việc sử dụng các mệnh lệnh hành chính trong điều hành kinh tế về lâu dài sẽ chỉ khiến các doanh nghiệp và người dân buộc phải vi phạm các mệnh lệnh này, chuyển dần các giao dịch chính thức thành giao dịch phi chính thức, và điều này càng làm gia tăng rủi ro và khả năng trục lợi của một số nhóm nhỏ trong nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế vừa qua đã cho thấy các chính sách mang tính mệnh lệnh thất bại nhiều hơn thành công. Hệ lụy của nó đôi khi cũng rất lớn và kéo dài. Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế nhưng vẫn phải dựa theo cơ chế vận hành của thị trường, và điều này cần phải được xác định rõ trong khung pháp lý điều hành chính sách vĩ mô của nhà nước./.


PGS. TS Nguyễn Văn Công
Đại học kinh tế quốc dân




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Banerjee A. và Duflo E. (2003), “Inequality and Growth: What can the data say?”, Journal of Economic Growth Vol. 8 Issue 3, pp. 267-99.
2. CAFOD (2014). What is “inclusive growth”? London: CAFOD
3. OECD (2015). All on Board: Making Inclusive Growth Happen, OECD Publishing, Paris.
4. Chang Christian (2014), “What is inclusive growth”, CAFOD discussion paper.

 


Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết