Chủ Nhật, ngày 28 tháng 04 năm 2024

Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quan hệ sở hữu đất đai trong giai đoạn mới

Ngày phát hành: 02/05/2022 Lượt xem 1597

                                        

                                                

Nông dân chăm sóc, thu hoạch hoa tại vùng quy hoạch sản xuất hoa tập trung xã Mê Linh, huyện Mê Linh (Hà Nội).

Ảnh: VĂN SINH

 

1. Những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện đồng bộ quan hệ sở hữu đất đai trong gia đoạn mới

 

- Yêu cầu đặt ra là: Trong giai đoạn mới, nguồn lực đất đai phải được sử dụng có hiệu quả tổng hợp cao hơn, đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

- Thực tiễn cho thấy tình trạng sử dụng đất đai vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập, hiệu quả tổng hợp chưa cao; tình trạng tham nhũng, tiêu cực về đất đai vẫn còn rất lớn, nhiêm trọng, kéo dài ở nhiều nơi (nhất là đất đai do các đơn vị nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trực tiếp quản lý - sử dụng); chưa có đủ các cơ chế, giải pháp, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời và hiệu quả tình trạng tham nhũng và tiêu cực trong lĩnh vực đất đai.

- Tình trạng khiều kiện về đất đai, tuy có giàm, nhưng vẫn còn rất phổ biến và kéo dài (chiếm tới khoảng 80% các khiếu kiện), trong đó các khiếu kiện liên quan chủ yếu đến quy hoạch, thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư …Điều đó cho thấy việc thực hiện pháp luật, các cơ chế, chính sách, giải pháp liên quan đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất còn nhiều bất cập, chưa phù hợp.

- Thực tiễn cho thấy, đổi mới đồng bộ quan hệ đất đai trong giai đoạn mới liên quan đến tất cả các cấp độ sau:

  • Cấp độ nhận thức lý luận và quan điểm về quan hệ sở hữu đất đai; trong đó có vần đề cần nhận thức rõ hơn, đầy đủ, phù hợp về bản chất và cấu trúc về chế độ “sở hữu toàn dân về đất đai” ở nước ta.
  • Cấp độ luật pháp về quan hệ đất đai.
  • Cấp độ các cơ chế, chính sách về quan hệ đất đai.
  • Cấp độ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức - quản lý thực hiện cơ chế, chính sách ở tất cả các cấp.
  • Cấp độ thực tiễn đang diễn ra (trong đó có những vấn đề mới đặt ra cần được nhận thức và giải quyết phù hợp, đúng, hiệu quả).

2. Hình thành các quan điểm chỉ đạo đổi mới toàn diện, đồng bộ quan hệ đất đai trong giai đoạn mới, đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn đặt ra

Trong Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 31 tháng 10 năm 2012, của BCHTW Khoá XI “về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, đã nêu 6 quan điểm về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai. Đến nay, nhiều nội dung trong 6 quan điểm đó vẫn còn giá trị chỉ đạo quan trọng; tuy nhiên, trước thực trạng của thực tiễn và yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, các quan điểm đó có thể cần được bổ sung, làm rõ hơn nội hàm, thể hiện rõ hơn tính hệ thống, đồng bộ của các quan điểm về tiếp tục đổi mới đồng bộ chính sách pháp luật đất đai đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoan mới. Theo hướng tiếp cận này, xin sơ bộ đề xuất các quan điểm như sau:

 

 (1) Đất đai là tài nguyên - tài sản đặc biệt, là kết quả “khai sơn phá thạch”, bảo vệ của tất cả các cộng đồng dân tộc, của các dòng họ, hộ gia đình, cá nhân người lao động, từ đời này qua đời khác; là lãnh thổ - không gian sinh tồn của cả Dân tộc, thuộc sở hữu toàn dân; hàm chứa trong đó sự thống nhất hữu cơ về quyền - trách nhiệm - lợi ích giữa Toàn dân (Quốc gia - Dân tộc) - Nhà nước - các cộng đồng dân cư - và những người sử dụng đất. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai; người sử dụng đất, đồng thời là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân, được Luật pháp giao cho sử dụng đất với tập hợp các quyền theo quy định, phù hợp với từng loại đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt.

(Quan điểm này tập trung làm rõ hơn bản chất và cấu trúc sở hữu Toàn dân về đất đai ở nước ta; khắc phục nhận thức chế độ sở hữu Toàn dân một cấp độ chủ thể là Nhà nước, đồng nhất sở hữu Toàn dân thành sở hữu Nhà nước).

 

(2) Nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai[1], đồng thời là một chủ thể sử dụng đất. Vai trò, chức năng của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) trong cả ba tư cách phải được xác định và chế định đồng bộ, không trùng chéo, công khai, minh bạch về các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích và trách nhiệm giải trình; đảm bảo thực hiện có hiệu lực, hiệu quả các chức năng đó. Trên nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước về đất đai đồng bộ cả về lập pháp, hành pháp và tư pháp; tiếp tục xác định, chế định phù hợp, hiệu quả cơ chế, chế độ phân công, phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) giữa các cấp, các ngành từ Trung ương xuống cơ sở trong việc thực hiện các chức năng của Nhà nước về đất đai. Xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, thống nhất, ổn định, hiệu lực, hiệu quả.

Hoàn thiện đồng bộ thể chế, thiết chế để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai; đẩy mạnh cải cách hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch trong thực thi các chức năng, quyền hạn của Nhà nước. Hoàn thiện đồng bộ thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước trong lĩnh vực đất đai. Đảm bảo cho pháp luật, cơ chế, chính sách về đất đai được thực hiện đúng, nghiêm minh; đảm bảo cho các quyền, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất được tôn trọng và bảo vệ.

(Quan điểm này tập trung nói về cần phải hoàn thiện đồng bộ vai trò, chức năng, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích và trách nhiệm giải trình của Nhà nước trong cả ba tư cách: đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, đồng thời là một chủ thể sử dụng đất; không chỉ đề cập về quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai).

 

(3) Đất đai với tính cách là điều kiện nền tảng - không gian sinh tồn của các tế bào - đơn vị xã hội, là tài sản và tư liệu sản xuất đặc biệt phải thuộc quyền sử dụng của các chủ thể cụ thể (người sử dụng). Người sử dụng đất với tư cách là chủ thể sử dụng đất[2], đồng thời là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân được Luật pháp chế định đồng bộ các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích tương ứng, phù hợp với từng loại chủ thể sử dụng đất và đối với từng loại đất. Người sử dụng đất có trách nhiệm quản lý sử dụng có hiệu quả và bảo vệ đất, đồng thời thực hiện đầy đủ, đúng các quyền, trách nhiệm cả với tư cách là người sử dụng đất và với tư cách là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân, vì lợi ích chung của cộng đồng, của Quốc gia - Dân tộc.

Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước thực hiện theo pháp luật trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân, nhưng Nhà nước có chính sách phù hợp để thúc đẩy quá trình tích tụ - tập trung đất nông nghiệp được sử dụng có hiệu quả, đẩy mạnh quá trình phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao, chất lượng cao, gắn với đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người sử dụng đất, đảm bảo an ninh lương thực - thực phẩm quốc gia; góp phần quan trọng vào phát triển nông thôn, nông dân văn minh, giàu đẹp, phát triển sinh thái bền vững.

(Quan điểm này tập trung nói đồng bộ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của người sử dụng đất, trong đó có đất nông nghiệp, cả với tư cách là người sử dụng đất và tư cách là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân. Các quyền cụ thể (8-9 quyền) nên cân nhắc xem có nêu khái quát tại đây chưa? hay để nói rõ ở phần mục tiêu, định hướng cụ thể, vì đối với từng loại chủ thể sử dụng đất và từng loại đất có tập hợp các quyền khác nhau, ví dụ hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức sử dụng đất có các quyền khác nhau đối với các loại đất được giao). 

 

 

(4) Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế, cơ chế, chính sách để quan hệ đất đai vận động có hiệu quả trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng và thực thi có hiệu quả về vai trò và mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội (người sử dụng đất) đối với từng loại đất và trình độ phát triển; đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách điều tiết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ đất đai; sử dụng có hiệu quả các công cụ và cơ chế thị trường trong quản lý đất đai; khắc phục có hiệu quả các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Hình thành thị trường đặc biệt về quyền sử dụng đất và gắn liền với các loại bất động sản liên quan, phù hợp từng loại đất và trình độ phát triển.

(Quan điểm này tập trung nói về định hướng chỉ đạo xây dựng đồng bộ thể chế thể hiện rõ vai trò và mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - xã hội - người sử dụng đất trong thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện của Việt Nam, Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, nhưng chế định và sử dụng có hiệu quả cơ chế thị trường trong quản lý đất đai).

 

(5) Định hướng cơ bản trong đổi mới quan hệ đất đai là đất đai phải được sử dụng một cách khoa học, tiết kiệm, theo chiều sâu, không ngừng nâng cao hiệu quả tổng hợp về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường sinh thái - an ninh quốc gia - quốc phòng; đất đai phải trở thành một nguồn lực trọng yếu cho phát triển nhanh,  bền vững đất nước từ thế hệ này sang thế hệ khác.

(Quan điểm này nói về mục tiêu, yêu cầu cao nhất, mang tính tổng hợp của việc tiếp tục đổi mới pháp luật, cơ chế, chính sách về đất đai trong giai đoạn mới).

 

(6) Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng và vai trò tham gia của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội đối với Nhà nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách về đất đai; đối với việc xây dựng và thực thi các quyền của Nhà nước (với tư cách là đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, và là chủ thể sử dụng đất); đối với việc xây dựng và thực thi các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sử dụng đất.

(Quan điểm này nói rõ hơn các yêu cầu và nội hàm lãnh đạo của các cấp ủy đảng, yêu cầu về vai trò - trách nhiệm tham gia của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội đối với việc xây dựng và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách về đất đai, và đối với việc xây dựng và thực thi các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sử dụng đất).

 

3. Một số định hướng chủ yếu về tiếp tục đổi mới và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ quan hệ đất đai trong giai đoạn mới

Các định hướng chủ yếu về tiếp tục đổi mới và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ quan hệ đất đai trong giai đoạn mới là cụ thể hóa các quan điểm đổi mới nêu trên. Xin nêu một số định hướng chủ yếu sau:

 

(1) Tiếp tục đổi mới và nhận thức đầy đủ, sâu sắc, phù hợp hơn về bản chất và cấu trúc của “chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” ở nước ta 

Khi xem xét về chế độ sở hữu đất đai cần phải xem xét tổng thể các phương diện sau: i) - Bản chất của quan hệ đất đai (chung và quan hệ hiện tồn); ii) - Lịch sử quan hệ đất đai, nhất là những yếu tố đang còn chi phối quan hệ đất đai hiện thực (cả về về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường sinh thái…); iii) - Các chế định pháp lý hiện hành; iv) - Cấu trúc quan hệ sở hữu nào (tức các hình thức thực hiện) cho phép đạt được các mục tiêu đặt ra trong chế độ sở hữu, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; đảm bảo cho đất nước ổn định về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, phát triển nhanh - bền vững.

Như vậy, việc lựa chọn một chế độ sở hữu đất đai phù hợp với thực tế và yêu cầu phát triển không thể là mong muốn chủ quan, không thể chỉ dựa trên logic lý luận thuần tuý về quan hệ sở hữu đất đai, không thể chỉ về phương diện kinh tế, quyền tài sản cho một số đối tượng nào đó. Ở đây lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích của mọi chủ thể sử dụng đất đai cần được chế định hài hoà, thoả đáng, gắn kết với nhau, cùng phát triển.

Hiện nay có 3 hướng tư duy khác nhau về đổi mới QHSHĐĐ : i) - Tăng cường cao hơn vai trò của nhà nước với tư cách chủ thể đại diện chủ sở hữu - quản lý - sử dụng tối cao (một cấp độ) giống như chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trước khi có Khoán 10 (năm 1988) và Luật đất đai 1993; ii) - Chuyển sang chế định chế độ đa sở hữu về đất đai (gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân), cho rằng như thế phù hợp với bản chất và logic lý luận phổ biến về sở hữu đất đai trên thế giới (hơn nữa, ở nước ta, đất ở về thực chất là sở hữu tư nhân rồi…); iii) - Tiếp tục chế định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Nhưng ở đây cũng có hai hướng tư duy: một, cho là nhận thức và chế định về chế độ sở toàn dân về đất đai như hiện hành là phù hợp rồi, không cần đổi mới thêm; hai, cho là cấn phải nhận thức rõ hơn và chế định phù hợp hơn về bản chất và cấu trúc của chế độ sở hữu đất đai toàn dân. Thực tế cho thấy hướng tư duy thứ hai mới phù hợp điều kiện thực tế lịch sử quan hệ đất đai của nước ta và đáp ứng với đòi hỏi phát triển của thực tiễn. Theo hướng này, cần phải nhận thức rõ hơn một số vấn đề sau:

Về đặc điểm chung của quan hệ đất đai trên thế giới, quan hệ đất đai chứa đựng tổng hợp trong mình nó những phương diện khác nhau:

          a). Đất đai là lãnh thổ quốc gia, là tài nguyên không thể thay thế được của quốc gia[3], là không gian sinh tồn của cả một dân tộc. Đất đai còn là kết quả của quá trình chế ngự tự nhiên, chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cả nhà nước và mọi công dân phải có quyền và nghĩa vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

          b). Đất đai là khu vực hành chính, địa vực sinh sống của một cộng đồng dân cư nhất định, được luật pháp khẳng định. Đất đai truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trên bình diện quốc gia cũng như đối với từng cộng đồng dân cư, gia đình, các cá thể...

          c). Đất đai thường là không gian sống - sản xuất - sinh tồn của mỗi gia đình có tính “cha truyền con nối”. Đây còn là nơi “chôn ra cắt rốn”, mồ mả tổ tiên… Đất đai theo nghĩa đó nó không đơn thuần mang yếu tố vật chất, yếu tố kinh tế, mà còn dấu ấn sâu đậm của yếu tố tinh thần, yếu tố tâm linh. Nếu quên đi những yếu tố này sẽ làm tổn hại sâu sắc đến tế bào gia đình, cộng đồng dân cư ở nông thôn, dẫn đến sự suy thoái về mặt tinh thần, đạo đức

d). Đất đai với tính cách là tài sản và tư liệu sản xuất (TLSX): đó phải là kết quả đầu tư lao động, vốn, khai thác, cải tạo của người lao động cụ thể (hoặc của một tập thể, hoặc của nhà nước) từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, là thành quả lao động chính đáng (ở đây không nói tới hành động tước đoạt của người khác). Như vậy đất đai với khái niệm chung không hoàn toàn đồng nhất với đất đai với tính cách là tài sản, TLSX nó phải gắn với người chủ cụ thể, người lao động cụ thể.

          e). Đất đai là địa bàn triển khai các hoạt động sản xuất nông nghiệp; là điều kiện, là tiền đề của sản xuất nông nghiệp. Điều kiện và tiền đề này khác căn bản với trong sản xuất công nghiệp: thành quả lao động cuối cùng phải thông qua, dựa vào đất đai. Con người phải “nuôi đất” thì đất mới nuôi người.

          g). Có sự khác biệt giữa đất đai với tính cách là TLSX - yếu tố của sản xuất hàng hóa với việc chính bản thân đất đai là hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường đất đai trở thành hoàng hóa đặc biệt; được tiền tệ hóa, trở thành một nguồn lực - yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình phát triển, có sự chuyển dịch mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, phát triển dịch vụ…

          h). Đất đai là tài sản, là tư liệu tiêu dùng, là phương tiện có thể cầm cố, thế chấp, cho thuê, sang nhượng, thừa kế…

Từ đặc thù của quan hệ sở hữu đất đai, chúng ta thấy mối quan hệ cơ bản nhất là mối quan hệ giữa nhà nước - người sử dụng - đất đai. Nhà nước thể hiện ra không chỉ với tư cách là người quản lý tối cao đối với đất đai. Dù ở chế độ sở hữu đất đai nào, thì Nhà nước cũng là người can dự trực tiếp vào các quan hệ sở hữu đất đai (vào các quyền và lợi ích của người chủ sở hữu - sử dụng đất). Mức độ can dự trực tiếp của Nhà nước vào quan hệ đất đai có thể với những mức độ khác nhau, đối với các loại đất khác nhau ở trong từng nước; nhưng không nước nào là không có sự can dự của Nhà nước, dù là trong chế độ sở hữu tư nhân về đất đai.

Theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, kể cả ở các nước tư bản phát triển, đối với đất đai và bất động sản thuộc sở hữu tư nhân, Nhà nước vẫn có những quyền “can thiệp” chủ yếu sau đây: (i) - quyền tước đoạt (hay quyền tiên mãi) đất đai, bất động sản vì các mục đích công cộng; (ii) - quyền lấy lại quyền sở hữu đất đai, bất động sản khi người chủ sở hữu chết và không có người thừa kế; (iii) - đánh các loại thuế về đất đai và bất động sản; (iv) - quy hoạch sử dụng đất đai quốc gia; quy định mục đích sử dụng các loại đất; cấm các chủ sở hữu đất đai xây dựng một số loại công trình trên một số loại đất nhất định; (v) - tước đoạt đất đai, bất động sản nếu chủ sở hữu không sử dụng bất động sản đó đúng pháp luật”.

 

Do đó, quan hệ sở hữu đất đai là một loại quan hệ sở hữu đặc biệt, chứa đựng tổng hợp các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái...; liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể: Quốc gia - Dân tộc, Nhà nước, cộng đồng, gia đình, người sở hữu - sử dụng cụ thể; cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Quan hệ sở hữu đất đai là một loại quan hệ sở hữu đặt biệt, luôn chứa đựng trong nó tổng hợp các yếu tố là lãnh thổ - tài nguyên của quốc gia - dân tộc; là môi trường sống của cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân; là tài sản, tư liệu sản xuất... Do đó, cả về lý luận và thực tiễn trên thế giới cho thấy quan hệ sở hữu đất đai là quan hệ “sở hữu kép”, “sở hữu có điều kiện”, “sở hữu hạn chế”, chứa đựng mối tương quan về quyền, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của cả quốc gia - dân tộc, Nhà nước với các cộng đồng dân cư, hộ gia đình và mỗi cá nhân. Cả quyền của Nhà nước và quyền của chủ thể sở hữu - sử dụng đất đai không phải là quyền sở hữu đầy đủ - tuyệt đối như đối với các tài sản khác. Mối tương quan khác nhau giữa quyền năng của Nhà nước và quyền của chủ thể sở hữu - sử dụng đất đã tạo nên sự đa dạng của các chế độ và hình thức quan hệ sở hữu đất đai trên thế giới.

 

Về quan hệ sở hữu đất đai của Việt Nam, có những đặc điểm chung của quan hệ đất đai trên thế giới, đồng thời có những đặc điểm riêng sau:

- Do điều kiện lịch sử hình thành đất nước, dân tộc, chống giặc ngoại xâm và chế ngự thiên nhiên, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, chế độ sở hữu đất đai phong kiến và sở hữu tư nhân về đất đai không mang tính chất điển hình cao như nhiều nước, mà tính chất cộng đồng dân cư, làng xã, dòng họ khá cao (tuy ở miền Bắc có khác với miền Nam), điều này vẫn còn nhiều yếu tố bảo lưu cho đến nay.

- Sau năm 1945, và thực hiện giảm tô, cải cách ruộng đất 1953-1954, đến Hiến pháp 1959 chế định chế độ đa sở hữu về đất đai (gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân). Nhưng từ năm 1958 - 1960 triển khai mạnh mẽ mô hình HTX-Tập thể hóa (TTH), các hộ nông dân đưa ruộng đất và tư liệu sản xuất vào HTX; sau giải phóng Miền Nam, mô hình HTX-TTH lại được áp dụng vào Miền Nam. Trên thực tế là “triệt tiêu” sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất của các hộ nông dân; địa vị và vai trò của kinh tế hộ nông dân bị triệt tiêu; do đó dẫn đến khủng hoảng nông nghiệp, kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài trong nhiều năm.

- Đến năm 1980, Hiến pháp chế định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, nhà nước thống nhất quản lý. Nhưng ngay sau đó, năm 1981, thực tiễn buộc phải thực hiện khoán 100 (khoán từng việc cho hộ nông dân tự chủ trên mảnh đất được giao); rồi tiếp đó mở rộng khoán, đến năm 1988 ra đời khoán 10 (khoán tới hộ), các hộ được làm chủ tất cả các khâu trên mảnh đất được giao sử dụng.

 

Nhìn lại quá trình từ 1958 đến 1980 và từ 1980 đến 1988 cho thấy chính sách về đất đai trên thực tế ngược lại với chế định pháp lý trong Hiến pháp về chế độ sở hữu đất đai. Tại sao ? đâu là bản chất của vấn đề ? Có một điều rất rõ là bất kể chế độ sở hữu và hình thức sở hữu đất đai nào mà không có chủ thể sở hữu - sử dụng cụ thể; và người nông dân sớm mai vác cuốc ra đồng còn băn khoăn tự hỏi “nhát cuốc này bổ xuống vì lợi ích của ai ?”, thì không thể tạo ra được động lực sử dụng và phát triển có hiệu quả, tất yếu phải trả giá. Với nhận thức đó, Luật đất đai 1993 ra đời vẫn trên nền tảng của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai theo Hiến pháp, nhưng đã chứa đựng bản chất mới: Nhà nước đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý, nhưng các loại đất đai được trao cho các chủ thể sử dụng cụ thể với tập hợp các quyền xác đinh (hộ nông dân được tao 5 quyền). Về bản chất, các quyền của người sử dụng đất không phải chỉ là quyền sử dụng thuần túy, mà nó hàm chứa nhiều phần nội dung của các quyền sở hữu (các quyền cơ bản như “định đoạt”, “chiếm hữu”, “quản lý sử dụng”, “hưởng dụng”…) được “phân chia” giữa Nhà nước và các chủ thể sử dụng đất. Như vậy, cùng là trong khuôn khổ chế định pháp lý “chế độ sở hữu toàn dân về đất đai”, nhưng trong cấu trúc một cấp độ chủ thể sở hữu - quản lý - sử dụng là Nhà nước như từ năm 1958-1980 và đến trước năm 1988 cho thấy sự không phù hợp của chế độ và hình thức sở hữu với bản chất quan hệ đất đai và lịch sử - điều kiện thực tế của nước ta. Khi luật đất đai 1993 ra đời, vẫn trong khuôn khổ của chế định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, nhưng đã mang bản chất mới về chế độ và cấu trúc chủ thể sở hữu - sử dụng đất đai. Đây là điều cần tiếp tục nhận thức rõ hơn. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai cần được hiểu cả về phương diện lịch sử, phương diện tự nhiên, phương diện chính trị - xã hội, với bản chất là : Đất đai là tài nguyên - tài sản đặc biệt, là kết quả “khai sơn phá thạch”, bảo vệ của tất cả các cộng đồng dân tộc, của các dòng họ, hộ gia đình, cá nhân người lao động, từ đời này qua đời khác; là lãnh thổ - không gian sinh tồn của cả Dân tộc, thuộc sở hữu toàn dân; hàm chứa trong đó sự thống nhất hữu cơ về quyền - trách nhiệm - lợi ích giữa Toàn dân (Quốc gia - Dân tộc) - Nhà nước - các cộng đồng dân cư - và những người sử dụng đất. Nhưng với tư cách là tài sản - tư liệu sản xuất đất đai phải thuộc quyền của các chủ thể sử dụng cụ thế. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai; người sử dụng đất, đồng thời là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân, được Luật pháp giao cho sử dụng đất với tập hợp các quyền theo quy định, phù hợp với từng loại đất. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt. Như vậy, cấu trúc chủ thể của chế độ sở hữu toàn dân phải là một thể thống nhất, gồm :

-   Chủ thể sở hữu tối cao là toàn dân (cả Dân tộc);

  • Nhà nước là đại diện chủ sở hữu của chủ thể thể hữu toàn dân;
  • Các cộng đồng dân cư
  • Tập hợp các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật (các đơn vị, các tổ chức, các hộ gia đình, cá nhân…);
  • Nhà nước là chủ thể quản lý thống nhất toàn bộ sự vận động của quan hệ đất đai theo pháp luật.

Sẽ là không hợp lý và không đúng với bản chất nếu chỉ coi Nhà nước là chủ thế đại diện tối cao duy nhất trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Ở đây cần xác định đúng mối quan hệ biện chứng giữa chung (quốc gia - dân tộc, mà Nhà nước là đại diện) với riêng (quyền của các chủ thể sử dụng đất) cả về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích tương hỗ giữa các chủ thể liên quan trong cấu trúc của chủ thể sở hữu - sử dụng đất.

Cần phải đảm bảo mỗi người dân, chủ thể sử dụng đất cụ thể với tư cách là một thành viên trong cấu trúc của chủ thể sở hữu toàn dân có quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc bảo vệ và phát triển lợi ích chung từ đất đai mang lại cho Quốc gia - Dân tộc, cho các cộng đồng dân cư, trong đó có lợi ích của chính mình. Đồng thời, xử lý hài hòa về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của Quốc gia - Dân tộc, Nhà nước, với các cộng đồng dân cư, các chủ thể sử dụng đất đai cụ thể.

- Cần nhận thức rõ sự khác biệt về quan niệm “sở hữu toàn dân” ta đang sử dụng, với quan niệm “sở hữu xã hội” mà Mác thường đề cập (là kết quả của quá trình phát triển và xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Cần nhận thức rõ sự khác biệt của “quốc hữu hóa” với “xã hội hóa”, và với bản chất của CNXH (Engghen).

- Nhận thức đầy đủ, đúng luận điểm của Mác về đất đai là sản vật tự nhiên, và do đó, chế độ sở hữu tư nhân là phi lý; tính chất phi lý của sở hữu tư nhân về đất đai mà Mác nói ở đây ý là đất đai là sản vật tự nhiên, không thể chiếm hữu nó làm sở hữu tư nhân và sử dụng như một phương tiện bóc lột người khác (khi Mác nói đất đai với tư cách là tài sản - tư liệu sản xuất phải thuộc chủ sở hữu cụ thể, có sự phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội).

 

(2) Tiếp tục đổi mới nhận thức và chế định rõ, phù hợp, hiệu quả hơn vai trò của Nhà nước trong quan hệ đất đai

- Trước hết cần nhận thức và chế định rõ cấu trúc, vai trò, quyền, trách nhiệm và lợi ích của chủ thể sở hữu toàn dân. Trong Hiến pháp và trong Luật đất đai đều nói về chủ thể sở hữu Toàn dân về đất đai. Nhưng vấn đề đặt ra là : Toàn dân là ai ? Trong Luật đất đai, chủ thể sở hữu Toàn dân không phải là một pháp nhân, không được chế định rõ, đầy đủ các quyền, trách nhiệm, lợi ích; và do đó không chế định được rõ trách nhiệm giải trình của Nhà nước (cả về tư cách đại diện chủ sở hữu và tư cách thống nhất quản lý nhà nước về đất đai) đối với chủ thể sở hữu Toàn dân. Chính điều này, mà trên thưc tế, ở không ít cấp coi sở hữu toàn dân đồng nhất với sở hữu nhà nước.

 

Cấu trúc chủ thể sở hữu Toàn dân về đất đai cũng chưa được nhận thức và chế định rõ. Trên thực tế, chủ thể sở hữu Toàn dân sẽ phải gồm các cấp độ sau: Toàn dân (toàn thể nhân dân trong cả nước); các cộng đồng dân cư theo các đơn vị hành chính; các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội; các chủ thể sử dụng đất và các cá nhân với tư cách là thành viên của chủ thể Toàn dân. Cần nhận thức và chế định rõ cấu trúc của của chủ thể sở hữu Toàn dân, để trên cơ sở đó chế định rõ, phù hợp quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của các loại chủ thể (ví dụ những vấn đề gì cần phải trưng cầu ý kiến, lấy ý kiến của người dân trước khi quyết định); và tương ứng với đó là chế định rõ trách nhiệm giải trình của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) đối với từng cấp chủ thể.

 

- Nghiên cứu xác định - chế định rõ hơn, phù hợp hơn, đồng bộ hơn vai trò của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) trong cả 3 tư cách: đại diện chủ sở hữu, chủ thể thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, và là một chủ thể sử dụng đất bình đẳng với các chủ thể sử dụng đất khác. Hiện nay, trên thực tế có những vấn đề chưa chế định thật rõ, thật phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) thực hiện các vai trò này (ví dụ việc thực hiện quyền quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất của cơ quan thực hiện vai trò đại diên chủ sở hữu…); đang có sự lẫn lộn, trùng chéo trong việc chế định và thực thi các chức năng trên của các cơ quan nhà nước, có tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” (một cơ quan có thể vừa là đại diện chủ sở hữu, vừa là quản lý nhà nước, vừa là chủ thể sử dụng); thiếu thiết chế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong quan hệ đất đai…Đây đang là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tham nhũng, tiêu cực về đất đai, quản lý đất đai kém hiệu quả.

 

Cần xác định rõ hơn cấu trúc của “Đại diện chủ sở hữu”. Trong Luật Đất đai hiện hành điều này cũng chưa được chế định thật rõ ràng, đầy đủ. Trong hệ thống tổ chức nhà nước có các tổ chức và pháp nhân sau liên quan đến việc thực hiện chức năng “Đại diện chủ sở hữu” về đất đai, như sau:

- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp

- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp

- Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp.

Đối với các chủ thể trên cần chế định rõ hơn nội dung, phạm vi, cấp độ về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện chức năng “Đại diện chủ sở hữu” đối với các loại đất khác nhau. Hơn nữa cần chế định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của từng tổ chức Nhà nước và người thay mặt tổ chức đó chịu trách nhiệm pháp lý việc thực thi các quyền và nghĩa vụ “Đại diện chủ sở hữu”; không lẫn với quyền quản lý nhà nước.

- Cần chế định rõ hơn nội hàm quản lý nhà nước về đất đai; phân cấp phù hợp, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai giữa giữa các cấp chính quyền (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường; vừa đảm bảo sự quản lý thống nhất của Trung ương (chung và theo các mục tiêu chiến lược của quốc gia), vừa phát huy có hiệu quả vai trò của từng cấp.

- Cần phải nghiên cứu xác định - chế định rõ hơn, phù hợp hơn, đồng bộ hơn vai trò của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) trong cả 3 tư cách: đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý nhà nước về đất đai, và là một chủ thể sử dụng đất đối với cả ba nhánh quyền lưc (lập pháp, hành pháp, tư pháp).

 

 

(3) Tiếp tục đổi mới nhận thức và chế định rõ, phù hợp, hiệu quả hơn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích của các chủ thể sử dụng đất.

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, các quyền của người sử dụng đất (chủ thể sử dụng đất) được xác định khá đồng bộ trong Luật Đất đai, đây là một bước tiến quan trọng về hoàn thiện quan hệ sở hữu đất đai ở nước ta. Các chuyên gia quốc tế nhận xét rằng, dù còn một số khác biệt, nhìn tổng thể các quyền của người sử dụng đất ở Việt Nam khá tương đồng giống với quyền sở hữu tư nhân về đất đai (sở hữu hạn chế, có điều kiện) ở nhiều nước trên thế giới. Mức độ hiệu quả tổng hợp về sử dụng đất đai trực tiếp phản ánh mức độ hiệu quả của việc các quyền của người sử dụng đất được thực hiện trên thực tế như thế nào. Mặc dù có những bước tiến quan trọng, song việc chế định và thực hiện các quyền của các chủ thể sử dụng đất vẫn còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện, thể hiện trên một số mặt sau đây: 

- Về mặt nhận thức, cần thấy rõ trong bản chất, các quyền của người sử dụng đất (9 quyền) không phải chỉ là quyền sử dụng thuần túy; trong nội dung các quyền này đều chứa đựng một phần nội hàm của các quyền sở hữu (trong đó có quyền định đoạt, quyền chiếm hữu, quyền quản lý - sử dụng, quyền hưởng dụng…). Các quyền này là một bộ phận cấu thành hữu cơ, tất yếu, khách quan của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Vì thế, việc chế định cơ chế, chính sách về các quyền của người sử dụng đất không thể chỉ xét theo giác độ sử dụng thuần túy.

 

- Từ quan điểm đất đai là tài sản và là hàng hóa đặc biệt, cần chế định rõ quyền sử dụng đất là quyền tài sản (điều này trong Nghị quyết 19 của Ban chap hành Trung ương khóa XI và trong Bộ luật Dân sự 2015 đã nêu rõ).

 

-  Cần xác định và chế định các quyền của chủ thể sử dụng đất trong “chế độ sở hữu toàn dân về đất đai” của nước ta được đầy đủ và đồng bộ về cả hai phương diện: i) - quyền của người sử dụng đất với tư cách là chủ thể được giao quyền sử dụng đất theo pháp luật; ii) - quyền của người sử dụng đất với tư cách là thành viên của cộng đồng dân cư, của “Toàn dân” với vai trò là chủ thể sở hữu đất đai của quốc gia (Hiện nay, trong pháp luật và thực tiễn xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách đất đai, thường nghiêng về giác độ chỉ coi người sử dụng đất là một chủ thể sử dụng đất thuần túy, chưa coi trọng chế định đúng, đầy đủ và thực thi có hiệu quả các quyền của người sử dụng đất với tư cách là thành viên của “chủ thể sở hữu Toàn dân”).

 

- Cần chế định các quyền của người sử dụng đất trong Luật Đất đai đồng bộ với các quyền của người sử dụng đất trong các luật liên quan khác (như trong Bộ Luật Dân sự 2015, đã chế định rõ về các quyền sở hữu, trong đó có các quyền định đoạt, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền hưởng dụng). Gắn hữu cơ giữa quyền và lợi ích với nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ thể sử dụng đất.

 

- Cần cụ thể hóa, thể chế hóa đồng bộ hơn các quyền của người sử dụng đổi với từng loại đất; chế định rõ công khai, minh bạch các điều kiện, “không gian” vận động của các quyền đó trong quan hệ dân sự, trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN (khắc phục triệt để tình trạng “xin cho”).

 

- Cần phải chế định đồng bộ các quyền của người sử dụng trong tương quan bình đẳng, hữu cơ với các các quyền của của Nhà nước (quyền của chủ thể đại diện chủ sở hữu và quyền quản lý của Nhà nước). Hoàn thiện đồng bộ cơ chế để đảm bảo các quyền của người sử dụng đất được thực thi có hiệu quả. Đây là vấn đề quan trọng, vì hiện nay, trong luật pháp đất đai, trong khi chế định về quyền của các cơ quan nhà nước (với tư cách là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai) rất “đậm nét”, thì chế tài, cơ chế, chính sách đảm bảo cho việc thực thi các quyền của người sử dụng đất lại chưa được chế định đầy đủ, đồng bộ và tương xứng. Trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng và đảm bảo thực thi đầy đủ, có hiệu quả các quyền của người sử dụng chưa được chế định rõ ràng, đầy đủ, công khai, minh bạch; thực thi chưa nghiêm (như việc thực thi các cơ chế, chính sách về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, định giá đất, thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, các thủ tục hành chính bất cập…, trong nhiều trường hợp chưa tôn trọng và đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích của người sử dụng đất). Trên thực tế, ở nhiều nơi dẫn đến sự “xung đột” về quyền và lợi ích với các cơ quan nhà nước thực thiện quyền đại diện chủ sở hữu và quản lý nhà nước về đất đai.

 

- Chế định rõ, công khai, minh bạch, phù hợp chế độ sử dụng các loại đất, cơ chế vận động công năng (mục đích sử dụng) các loại đất (đất nông nghiệp, đất rừng, đất đô thị, đất công nghiệp, đất quốc phòng, đất tôn giáo - thờ tự…), gắn liền với đó là quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của các chủ thể sử dụng đất. Đây là vấn đề rất hệ trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tổng hợp sử dụng các loại đất. Hiện nay, nhiều vấn đề lớn đang đặt ra về chế độ sử dụng đất nông nghiệp (vấn đề hạn điền, thời hạn giao đất, vấn đề tích tụ - tập trung ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, liên quan đến an ninh lương thực - an ninh thực phẩm và an ninh môi trường sinh thái quốc gia, phát triển bền vững kinh tế -xã hội ở nông thôn; vấn đề sử dụng đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh trước đây, vấn đề giao đất giao rừng cho cộng đồng dân cư…); về chế độ sử dụng đất của các cơ quan đơn vị nhà nước; về chế độ sử dụng đất để phát triển công nghiệp, đô thị hóa, phát triển các loại bất động sản trên đất…đều cần phải có quan điểm, định hướng, cơ chế, chính sách quản lý phát triển đúng đắn, dài hạn, bền vững.

 

- Chế định công khai, minh bạch cơ chế đảm bảo quyền tiếp cận đất đai thuận lợi, công bằng đối với tất cả các chủ thể có nhu cầu sử dụng đất theo định hướng phát triển của đất nước.

 

(4) Hoàn thiện đồng bộ thể chế để đất đai (quan hệ đất đai) vận động có hiệu quả cao trong thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Trong những năm qua, với quan điểm đất đai là tài sản và là hàng hóa đặc biệt, thể chế thị trường về đất đai đã có những bước tiến quan trọng, thị trường quyền sử dụng đất đã có bước phát triển tích cực. Tuy nhiên, vẫn đang còn nhiều “rào cản”, “điểm nghẽn” cả từ nhân tố khách quan và chủ quan. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh hoàn thiện đồng bộ thể chế, tạo cơ sở cho thị trường đất đai phát triển công khai, minh bạch, hiệu quả hơn, cần chú trọng thực hiện một số nhiệm vụ sau:

i) - Về nhận thức, cần thấy rõ quan hệ đất đai tham gia vào cơ chế thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau:

 - Đất đai trở thành hàng hóa đặc biệt, được mua, bán trên thị trường. Nghĩa là phương diện giá trị của đất đi vào kinh tế thị trường. Quyền sở hữu (quyền sử dụng) trở thành hàng hóa lưu chuyển trên thị trường từ chủ thể này sang chủ thể khác.

- Đất đai trở thành đối tượng được cho thuê, mướn theo thời hạn (không thay đổi quyền sở hữu - sử dụng).

- Đất đai trở thành tài sản thế chấp, cầm cố;

- Đất đai trở thành tài sản trao đổi theo giá thị trường (hay giá thỏa thuận).

- Đất đai trở thành vốn góp trong đầu tư, góp vốn sản xuất kinh doanh.

- Đất đai được sử dụng để sản xuất hàng hóa và hàng hóa đi vào thị trường mang theo giá trị của đất đai.

- Đất đai trở thành tài sản ủy thác sử dụng (ủy thác khai thác) với những hình thức khác nhau…

Mỗi hình thức đất đai tham gia vào cơ chế thị trường nêu trên đòi hỏi những quy định pháp lý, cơ chế, chính sách phù hợp tương ứng. Như vậy, không nên nhìn nhận thể chế thị trường đất đai chỉ thiên về đất đai (quyền sử dụng đất) được mua bán trên thị trường. Cần nhận thức rõ bản chất của quan hệ đất đai vận động trong cơ chế thị trường đó là sự vận động của giá trị đất gắn liền với giá trị sử dụng đất trong cơ chế thị trường.

 

ii) - Cần nhận thức rõ xây dựng thể chế thị trường đất đai không chỉ là hình thành khung pháp lý cho quan hệ đất đai vận động trong cơ chế thị trường, mà là tổng thể về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó quan hệ đất đai vừa là điều kiện - tiền đề vừa là kết quả của trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Không thể có trình độ thể chế thị trường đất đai tiên tiến, hiện đại (theo lý thuyết), trong khi trình độ phát triển nền kinh tế thị trường còn thấp (ví dụ thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp ở đồng bằng Sông Cửu Long phát triển cao hơn ở đồng bằng Sông Hồng). Vì vậy, việc xây dựng thể chế thị trường đất đai phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển ở từng vùng, đối với từng loại đất.

 

iii) - Trên cơ sở chế định quyền sử dụng đất là quyền tài sản, đất đai là loại hàng hóa đặc biệt, phải chế định rõ hơn, công khai, minh bạch và đảm bảo thực hiện đúng các quyền của người sử dụng đất (chiếm hữu, quản lý, sử dụng, hưởng lợi, cho thuê, chuyển đổi, sang nhượng, thừa kế, thế chấp, góp vốn…) đối với từng loại đất; chế định rõ khung pháp lý để các quyền đó vận động có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Hạn chế sự can thiệp trái luật, phi thị trường của các cơ quan nhà nước.

 

iv) - Chế định rõ các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước (các cơ quan nhà nước) trong việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu và quản lý nhà nước về đất đai phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng đồng bộ thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước - thị trường - các chủ thể sử dụng đất - đất đai đối với từng loại đất.

 

v) - Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các công cụ quản lý, điều tiết có hiệu quả sự vận động của các loại thị trường đai, như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, định giá đất, thu hồi, đền bù, giải phóng mặt bằng, giao đất, cho thuê đất, đấu thầu quyền sử dụng đất; đặc biệt, cần hoàn thiện đồng bộ các công cụ tài chính, nhất là các loại thuế, phí về đất đai, quyền sử dụng đất đai, gắn với thuế bất động sản phù hợp, công khai, minh bạch…; trong đó kết hợp có hiệu quả cơ chế thị trường với các chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước[4], đảm bảo cho quan hệ đất đai vận động có hiệu quả trong thể chế kinh tế thị trường, khắc phục được tình trạng tham nhũng, tiêu cực, đầu cơ, sử dụng lãng phí đất đai.

 

vi) - Cần vốn hóa toàn bộ đất đai được giao sử dụng đối với tất cả các chủ thể sử dụng đất (nhất là đổi với các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, các doanh nghiệp nhà nước), phù hợp với cơ chế thị trường, gắn liền với hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý, chế định rõ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình, nhất là đối với những người đứng đầu. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để quản lý đất có hiệu quả về mặt kinh tế đất.

 

vii) - Nhà nước xây dựng hệ thống quản lý đất đai hiện đại, phù hợp với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường.

 

(5) Định hướng cơ bản trong đổi mới quan hệ đất đai là không ngừng nâng cao hiệu quả tổng hợp về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường sinh thái - an ninh quốc gia - quốc phòng; đất đai phải trở thành một nguồn lực trọng yếu cho phát triển nhanh - bền vững đất nước từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Đây phải là tư duy chiến lược định hướng phát triển dài hạn ở tầm Quốc gia - Dân tộc; đồng thời phải được thấu suốt ở tất cả các cấp, các ngành và các chủ thể sử dụng đất. Điều này đòi hỏi phải đổi mới cách tiếp cận về xây dựng cơ chế, chính sách về đất đai, về đổi mới quan hệ đất đai, không chỉ tập trung về nâng cao hiệu quả kinh tế đất, không ngừng nâng cao giá trị gia tăng từ sử dụng đất (mặc dù đây là một mục tiêu rất quan trọng), mà phải hướng tới hiệu quả tổng hợp về kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường sinh thái - an ninh quốc gia - quốc phòng ở mọi cấp độ, trong một chiến lược phát triển dài hạn, bền vững. Ở đây đòi hỏi xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp xử lý có hiệu quả mối quan hệ giữa các mục tiêu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái, an ninh, quốc phòng trong sử dụng đất đai. Đồng thời phải xử lý hòa lợi ích phát triển của Quốc gia - Dân tộc với lợi ích của tất cả các chủ thể liên quan trong quan hệ đất đai.

 

PGS.TS Trần Quốc Toản

                                             Nguyên uỷ viên HĐLLTƯ

 



            [1] Trong quan điểm đầu tiên của NQ -19/TW, khóa XI, xác định: “Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp luật”. Trong những nội dung này có những quyền lẫn với quyền quản lý của Nhà nước, vả lại cũng chưa dủ rõ; chưa nêu thật rõ về các quyền của Nhà nước với tư cách là chủ thể pháp lý thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Hơn nữa, trong các quan điểm nêu ở NQ - 19 chưa nêu thật rõ yêu cầu phải chế định rõ, đồng bộ về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích và trách nhiệm giải trình của Nhà nước trong cả ba tư cách là đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý nhà nước về đất đai và tư cách là một chủ thể sử dụng đất. Cho nên, ở phần quan điểm, chỉ nên nêu những nội dung cơ bản, mang tính nguyên tắc. Còn nội dung cụ thể hơn, nên để để nêu chi tiết ở phần mục tiêu, định hướng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, thì logic hơn.

 

          [2] Trong NQ-19/TW, khóa XI và trong Luật đất đai 2013 xác định người sử dụng đất có các quyền: sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Nhưng chưa chế điịnh rõ quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích với tư cách là thành viên của chủ thể sở hữu Toàn dân. Hơn nữa, đối với từng loại chủ thể sử dụng đất, loại đất đai sẽ có tập hợp các quyền sử dụng tương ứng khác nhau. Vì thể, các quyền của người sử dụng đất nên được nêu ở nội dung định hướng tiếp tục đổi mới ở sau.

          [3] Hiến pháp nước cộng hòa xã hội Việt Nam năm 2013, tại Điều 54 chế địnhĐất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”.

 

 [4] Điều này được thể hiện rất rõ qua thực tế định giá đất và đấu thầu quyền sử dụng đất như ở Thủ Thiêm (thành phố Hồ Chí Minh) vừa qua, ở Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Giang và các tỉnh khác. Do cơ chế, chính sách chưa phù hợp, sơ hở, đẫn đến tình trạng đầu cơ, “thổi giá”, “lướt sóng”, làm méo mó cơ chế thị trường; giá trúng thầu cao hơn giá khởi điểm tới 5-6 lần, trúng thầu rồi bỏ cọc, hoặc bỏ đó không sử dụng hàng trăm lô đất mà không có chế tài để xử lý. Ở tất cả các tỉnh, giá trúng thầu đều cao hơn nhiều so với giá khởi điểm.

Thu tiền vào ngân sách của cả nước và của các địa phương từ đấu thầu quyền sử dụng đất không ngừng tăng lên qua các năm gần đây. Hiện đấu thầu quyền sử dụng đất chiếm khoảng 90% giá trị đấu thầu tài sản công. Nguồn thu ngân sách từ đất đai tăng dần qua các năm: 2013 - 64.000 tỷ đồng; 2016 - 128.000 tỷ đồng; 2020 - 255.000 tỷ đồng; trong đó khoảng 80% là từ bán quyền sử dụng đất, còn lại khoảng 20 % là cho thuê mặt nước, nuôi trồng thủy sản…Xét về thu ngân sách, đây là một đóng góp quan trọng, tích cực; nhưng xét về phương diện phát triển, thì đây là nguồn thu không bền vững; vì đất đai có hạn, không “sinh đẻ” ra được, Nhà nước “bán quyền sử dụng” chỉ thu được một lần trong một chu kỳ rất dài, các nhiệm kỳ sau có thể không còn gì đề bán. Vấn đề quan trọng là phải hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để quan hệ đất đai vận động có hiệu quả trong cơ chế thị trường, theo hướng không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nâng cao giá trị gia tăng từ sử dụng đất đai trong các lĩnh vực của mọi chủ thể, từ đó mà tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước; đồng thời, đảm bảo tính công bằng xã hội trong sử dụng nguồn lực đất đai của đất nước.

 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết