Thứ Sáu, ngày 17 tháng 05 năm 2024

Xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội theo quan niệm của C.Mác

Ngày phát hành: 11/03/2022 Lượt xem 3057

          

 

1. Quan niệm của C. Mác về phát triển xã hội

C. Mác không có tác phẩm chuyên biệt và cũng ít bàn về phát triển xã hội cũng như những vấn đề về quản lý phát triển xã hội do điều kiện lịch sử - xã hội lúc bấy giờ chưa đặt ra. Mặc dù vậy, nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm của Người, chúng ta thấy có một số quan niệm về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của C. Mác có giá trị lý luận. Điều đó được biểu hiện cụ thể như sau:

 

Một là, phát triển xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên

Nhà tư tưởng, lý luận thiên tài của giai cấp công nhân trên toàn thế giới - C. Mác, đã xuất phát từ “con người hiện thực” để đi nghiên cứu về xã hội, trên cơ sở đó đã khẳng định chân lý: “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”[1]. Theo đó có thể hiểu, xã hội bao gồm những cá nhân trong cộng đồng tương tác với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong đời sống xã hội, từ đó hình thành nên những quan hệ xã hội: “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau”[2]. Từ tổng số những quan hệ xã hội đó, C. Mác đã làm nổi bật lên quan hệ sản xuất là quan hệ trung tâm, chi phối những quan hệ xã hội khác trong xã hội khi khẳng định: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy… hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[3]. Tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần, pháp luật và những thiết chế quản lý tương ứng trong xã hội. Nhưng “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[4]. Điều này cho thấy, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ khác (kiến trúc thường tầng) trong xã hội. Tất cả những yếu tố đó hợp thành hình thái kinh tế - xã hội. Với việc chỉ ra học thuyết hình thái kinh tế - xã hội này, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đồng thời phát hiện ra động lực bên trong, cơ bản của sự phát triển xã hội là sự vận động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Mác không chỉ dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội, về quan hệ sản xuất nói chung mà đã đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể là xã hội tư bản chủ nghĩa với những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phức tạp, để rồi khẳng định: “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”[5]. Vậy là, con người làm ra lịch sử của mình, tạo ra những quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội vận động theo những quy luật khách quan (quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng) không phụ thuộc vào ý muốn con người. Và cũng do đó, sự phát triển của xã hội loài người là tất yếu khách quan, do động lực nội tại, bên trong của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội chi phối.

 

Hai là, vai trò của quản lý xã hội  

Theo C. Mác mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại đều có những hình thức quản lý xã hội khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị của xã hội đó. Bởi: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[6]. Từ khi bắt đầu hình thành xã hội loài người với các quan hệ xã hội, để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội đều cho thấy, quản lý xã hội vì mục tiêu phát triển xã hội luôn là một thuộc tính tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội đó là hoạt động lao động tập thể - lao động xã hội của con người, như C.Mác khẳng định: “bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế. Hoạt động và sự hưởng dụng những thành quả của hoạt động, xét theo nội dung của nó cũng như xét theo phương thức tồn tại, đều mang tính chất xã hội; hoạt động xã hội và hưởng dụng xã hội[7]. Đồng thời, trong quá trình lao động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động, phải có sự quản lý.

 

Để minh chứng cho vai trò to lớn của quản lý xã hội, C. Mác đã nghiên cứu quản lý dưới chế độ tư bản và cho rằng, lúc đầu nhà tư bản trực tiếp giám sát, điều hành sản xuất, nhưng khi tư bản đạt đến một đại lượng nhất định thì họ bàn giao công việc quản lý cho những sĩ quan công nghiệp và những hạ sĩ quan, là những người quản lý chuyên nghiệp, nhân danh nhà tư bản để quản lý quá trình sản xuất. Theo đó, hoạt động quản lý đã trở thành một nghề chuyên môn và là lao động làm thuê cho tư bản[8]. Tuy nhiên, C. Mác cũng nhận thấy, trong giai đoạn đầu, chủ nghĩa tư bản đã có công lớn trong việc giải phóng tầng lớp thứ ba khỏi sự nô dịch của vương quyền và thần quyền trung cổ. Nhưng cùng với sự phát triển của xã hội tư bản, người lao động đã rơi vào tình trạng bần cùng hóa, bị nô dịch và tha hóa. Tình trạng đó, theo C. Mác sẽ được khắc phục trên cơ sở một quan hệ sản xuất mới không dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà dựa trên quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Theo đó, quản lý xã hội cũng nhằm hướng tới “phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân”[9]. Mục đích và ý nghĩa của quản lý xã hội thể hiện ở sự giải phóng con người thoát khỏi mọi sự nô dịch, tha hóa, qua đó phát triển xã hội, phát triển toàn diện con người.

 

Ba là, quản lý xã hội được xây dựng trên cơ sở phát triển kinh tế

Theo C. Mác, “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tình thần nói chung… Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”[10] và “Quyền không bao giờ ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”[11]. Điều này cho thấy, nguyên tắc của quản lý xã hội dựa trên trình độ phát triển kinh tế, khi kinh tế thay đổi, tức cơ sở vật chất thay đổi, thì nội dung và phương thức quản lý xã hội cũng như các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tình thần cũng thay đổi theo.

Ph. Ăngghen khi nghiên cứu về giai cấp công nhân Anh cũng đã rút ra nhận xét về nguyên tắc quản lý xã hội: “… một quyền uy nhất định, không kể quyền uy đó đã được tạo ra bằng cách nào… cũng đều do những điều kiện vật chất trong đó tiến hành sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho trở thành tất yếu đối với chúng ta”[12] và “phải tìm những nguyên nhân cuối cùng của tất cả những biến đổi xã hội và của tất cả những biến cách chính trị không phải trong đầu óc người ta, không phải ở sự hiểu biết ngày càng tăng thêm của người ta về chân lý và chính nghĩa vĩnh cửu, mà là ở sự biến đổi của phương thức sản xuất và trao đổi; phải tìm những nguyên nhân đó không phải ở triết học, mà ở nền kinh tế của thời đại mình nghiên cứu”[13]. Những luận điểm trên cho thấy, trong quản lý xã hội, pháp luật, quyền uy, chính sách… không bao giờ được cao hơn cơ sở kinh tế đã sinh ra nó. Đây là nguyên tắc quan trọng, giúp chủ thể quản lý có thể đi đúng quy luật, không xa rời cơ sở kinh tế, qua đó thực hiện thành công mục tiêu quản lý của mình.

Tuy nhiên, khi nhấn mạnh vai trò quyết định hàng đầu của cơ sở kinh tế, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng không tuyệt đối hóa chúng như những yếu tố duy nhất trong quá trình phát triển xã hội. Bởi: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Vấn đề hoàn toàn không phải là chỉ có hoàn cảnh kinh tế mới là nguyên nhân, chỉ có nó là tích cực, còn tất cả những cái còn lại đều chỉ là hậu quả thụ động. Không, ở đây tác động qua lại trên cơ sở tất yếu kinh tế, xét cho cùng bao giờ cũng mở đường đi cho mình”[14]. Điều này cho thấy, quản lý xã hội cũng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, nó giữ vai trò kiểm soát các cơ cấu và hành vi xã hội, giữ kinh tế - xã hội phát triển trong trật tự, kỷ cương.

 

Bốn là, quản lý xã hội theo phương thức dân chủ kết hợp chuyên chính trong điều kiện cần thiết

Ngay từ những tác phẩm đầu đời của mình, C. Mác đã khẳng định: giai cấp vô sản sau khi dành được cách mạng cần: “tạo ra một chế độ dân chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản”[15]. Tức là sau khi cách mạng thắng lợi, nhiệm vụ trước mắt của giai cấp vô sản là thiết lập một chế độ dân chủ, hay một nhà nước quản lý xã hội theo phương thức thực hiện dân chủ của giai cấp vô sản nhằm xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Theo đó, quản lý xã hội trong xã hội mới là: “… sự cai quản nhân dân do chính nhân dân đảm nhiệm”[16] là một xu hướng tất yếu dưới chủ nghĩa xã hội. Đây là phương thức quản lý xã hội nhằm tạo động lực cho mỗi cá nhân phát triển xã hội theo hướng bền vững.

Sau này do yêu cầu của thực tiễn cách mạng, C.Mác đã bổ sung, trong giai đoạn nhà nước còn non yếu, quản lý xã hội cần áp dụng biện pháp “cứng rắn”, do vậy, giai cấp công nhân cần “đập tan” bộ máy nhà nước tư sản hay: “Lật đổ giai cấp tư sản! Chuyên chính của giai cấp công nhân[17] và “chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản, coi đó là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những sự khác biệt giai cấp nói chung, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ làm cơ sở cho những sự khác biệt ấy, xóa bỏ tất cả những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó, để đi đến cải biến tất cả những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó”[18]. Luận điểm trên đã khẳng định, trong những giai đoạn nhất định của cách mạng, chuyên chính vô sản là cần thiết. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ, thực hiện chuyên chính là để trấn áp các thế lực phản cách mạng, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ những mối quan hệ xã hội lỗi thời, lạc hậu, tiến tới xã hội không còn áp bức bóc lột, con người được giải phóng, phát triển xã hội bền vững. 

 

2. Ý nghĩa trong xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay

Thời kỳ trước đổi mới (1986), chúng ta đã nhận thức khá giản đơn trong giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện quản lý phát triển xã hội theo mô hình kế hoạch hóa. Đặc biệt, chủ trương lúc bấy giờ xây dựng quan hệ sản xuất “tiên tiến” đi trước mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, với chủ trương đó, thì các hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng bị xóa bỏ và đương nhiên, trong xã hội cũng thủ tiêu được bất công xã hội, đồng thời, các giá trị của chủ nghĩa xã hội cũng nhanh chóng được xác lập được. Nhưng thực chất, đây là sự nhận thức nóng vội, chủ quan, chưa đầy đủ và thiếu cơ sở thực tiễn về mô hình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam lúc bấy giờ. Bởi, quản lý phát triển xã hội chưa trên cơ sở kinh tế và chưa gắn bó chặt chẽ với phát triển kinh tế; chưa thấy được phát triển xã hội không phải thụ hưởng một chiều thành quả kinh tế mà còn tác động trở lại bảo đảm phát triển kinh tế bền vững.

Trong đổi mới, Đảng ta đã quan tâm nhiều hơn tới việc xây dựng một mô hình quản lý phát triển xã hội trên cơ sở gắn kết chặt chẽ các chủ thể xã hội giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra nhằm tạo động lực cho mọi cá nhân - xã hội phát huy năng lực sáng tạo của mình, hướng tới phát triển xã hội bền vững. Tại Đại hội lần thứ XII, lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến khái niệm phát triển xã hội bền vữngquản lý phát triển xã hội khi yêu cầu: “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”[19]. Đây chính là nhận thức mới của Đảng ta về phát triển xã hội phải vì mục tiêu bền vững và trên cơ sở thực hiện hiệu quả quản lý phát triển xã hội. Đến Đại hội XIII, Đảng ta đã bổ sung và khái quát mô hình quản lý phát triển xã hội của Việt Nam: “Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã”[20].

Phát triển xã hội là do sự vận động, biến đổi của những quy luật nội tại trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, để quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, trước hết về cơ bản và lâu dài, chúng ta cần:

 

Một là, xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - tức xây dựng cơ sở kinh tế vững chắc cho quản lý phát triển xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã khẳng định: “Hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa[21]. Bởi, chỉ trên cơ sở quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu) con người mới được giải phóng, thoát khỏi tha hóa trong lao động, qua đó tiến bộ và công bằng đích thực mới được bảo đảm và xã hội đó mới thực sự phát triển bền vững. Ngoài ra, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ nhằm mục đích khắc phục những tính chất lạc hậu, tiêu cực của các quan hệ sản xuất trước kia đã từng tồn tại ở nước ta; khắc phục tính chất lạc hậu, tiêu cực của một số quan hệ sản xuất đang tồn tại trên thế giới; quan hệ sản xuất tiến bộ chứa đựng ngày càng nhiều giá trị nhân văn, dân chủ, công bằng. Đó là các quan hệ sản xuất đi trước một bước, định hướng phát triển cho các lực lượng sản xuất hiện đại và chủ động đảm bảo cơ sở vật chất - kinh tế cho quản lý phát triển xã hội.

Theo quy luật, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, chủ trương của Đảng ta từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mang ý nghĩa thực tiễn. Bởi nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, nên chúng ta phải phát triển kinh tế nhiều thành phần và mỗi thành phần có thể thích ứng với nhiều loại hình quan hệ sản xuất khác nhau. Vì vậy, việc lựa chọn loại hình quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với thực tiễn trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.  

 

Hai là, gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với quản lý phát triển xã hội. Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kinh tế nhiều thành phần, vì vậy, quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng phải thấy rõ tính đa dạng, phức tạp của mô hình này. Cần xây dựng mô hình quản lý theo hướng gắn mục tiêu phát triển xã hội trong từng mục tiêu phát triển kinh tế và phát triển kinh tế nhằm mục đích giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển xã hội bền vững.

Cụ thể ở Việt Nam hiện nay, cần xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội trên cơ sở “kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội”[22]. Phát triển hệ thống cơ cấu xã hội bảo đảm sự phù hợp với cơ cấu kinh tế, lãnh thổ, nghề nghiệp, tôn trọng điều kiện lịch sử - tự nhiên, chấp nhận phân tầng xã hội trong sự kiểm soát do phân phối theo lao động và phân phối theo vốn đóng góp; “Phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm sự trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế”[23]. Đây được coi là công cụ quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay; Thực hiện chính sách xã hội phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực nhằm giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích. Bởi, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người nên xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội trên cơ sở thực hiện chính sách xã hội phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích sẽ tạo tiền đề cho phát triển xã hội bền vững.

 

Ba là, xây dựng phương thức quản lý phát triển xã hội trên cơ sơ giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội. Đây cũng là một trong 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết theo văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Giữa nhà nước, thị trường và xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mỗi thành tố đều có chức năng, vai trò riêng, nhưng cùng hướng tới thúc đẩy sự phát triển xã hội. Chức năng chính của nhà nước là quản lý xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững nhưng cũng bị nhóm lợi ích chi phối và thiếu những thông tin trước sự biến đổi nhanh của thị trường, của xã hội do đó cần có sự tham gia của thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của thị trường, người dân - nhất là nhóm yếu thế trong xã hội Thị trường là nơi thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa và vận hành theo các quy luật khách quan. Về nguyên tắc, để sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp thường phải tuân thủ hàng loạt quy định pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng bản thân thị trường cũng có những mặt trái, khuyết tật mà xã hội không mong muốn. Do vậy, để khắc phục thất bại của thị trường, nhà nước phải can thiệp để tạo cơ hội, môi trường cho sự vận hành bình thường của thị trường đáp ứng yêu cầu xã hội; Còn xã hội là “sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” bao gồm các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng, gia đình, cá nhân. Các nhóm xã hội thường đề cao thiết chế xã hội, cả thành văn và bất thành văn, gắn với tính tự quản, dễ tạo ra những “lệ” riêng, không gắn với pháp luật và quy định chung của xã hội. Do vậy, cần có sự điều chỉnh của nhà nước và thị trường tới xã hội trong quá trình xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội. Đồng thời, xã hội cũng tham gia bù đắp những thiếu hụt của thị trường, chia sẻ trách nhiệm của nhà nước, cung cấp những thông tin, những mong muốn, kỳ vọng của người dân trong quản lý phát triển xã hội.

Những phân tích trên cho thấy, bản thân mỗi thành tố hoặc nhà nước, hoặc thị trường, hoặc xã hội không thể làm tốt chức năng của mình do bên cạnh những lợi thế của từng thành tố, vẫn có những hạn chế không thể khắc phục. Vì vậy, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội chính là yêu cầu tất yếu khách quan nâng cao sức mạnh quản trị tổng hợp của đất nước, dựa trên việc phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, bổ sung cho nhau trong xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội bền vững.

 

Bốn là, xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội theo nguyên tắc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, Nhà nước của chúng ta là “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và là Nhà nước “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Vì vậy, quản lý phát triển xã hội, cần hướng tới lợi ích chung của đại đa số người dân, tức là luôn phải gắn với yêu cầu bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Nói cách khác, quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật khách quan của nó, đó là: (1) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, để xã hội hoạt động có kỷ cương; (2) Các tổ chức xã hội thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật. Xét về bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải nâng cao được chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển của xã hội và quyền làm chủ đó phải được tôn trọng, bảo vệ nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Tuy nhiên, chừng nào còn có những giai cấp khác nhau, còn có các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá cách mạng thì không thể nói “dân chủ thuần túy” được, mà chỉ có thể nói đến dân chủ có tính chất giai cấp. Đồng thời, ở Việt Nam hiện nay còn tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội thì xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phải gắn liền với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đại hội XIII cũng nhấn mạnh mối quan hệ chủ yếu cần giải quyết trong thời gian tới là “thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội[24]. Đây là chủ trương đúng đắn và cần thiết ở nước ta hiện nay. Theo đó, quản lý phát triển xã hội cũng cần dựa trên nguyên tắc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

 

Tăng cường pháp chế là tăng cường quản lý mọi hoạt động của xã hội trên cơ sở hệ thống pháp luật và bảo đảm kỷ cương xã hội là thực hiện những phép tắc nhà nước duy trì trật tự xã hội. Pháp luật là phương tiện thực hiện dân chủ và là công cụ bảo vệ dân chủ. Thượng tôn pháp luật là điều kiện thiết yếu để dân chủ được thực hành rộng rãi và thực chất. Vì vậy, xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội trên nguyên tắc thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội sẽ làm cho mọi quyền và nghĩa vụ của công dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế, qua đó, xã hội sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

 

PGS.TS. Lê Thị Thanh Hà

Phó Viện trưởng, Viện Xã hội học và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 

 



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1996, t.27, tr.657.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1998, t. 46, ph.1, tr.355.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1993, t. 13, tr.15.

[4] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, Tập 4, tr. 187.

[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2004, tập 23, tr.1

[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2004, tập 23, tr.480.

[7] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2000, t.42, tr.169 -170.

[8] Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, HN, 2004, t.23, tr.482.

[9] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.26, phần 2, tr.168.

[10] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.

[11] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, t.19, tr.35 - 36.

[12] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, t.18, tr.421.

[13] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, t.19, tr.306.

[14] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.39, tr.270.

[15] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 469.

[16] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994, t.17, tr.461.

[17] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 1993, tập 7, tr.47 - 48.

[18] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H.1993, tập 7, tr.126.

[19] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG - ST, Hà Nội, 2016, tr.30.

[20] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, t.I, tr 147.

[21] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, t.I, tr 39.

[22] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, t.I, tr 148.

[23] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, t.I, tr 150.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, HN, 2021, tập I, tr.39.

 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết