Thứ Bảy, ngày 27 tháng 04 năm 2024

Tập quán mai táng của người Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Ngày phát hành: 28/08/2019 Lượt xem 3775

Ngày 27/8, tại Hà Nội Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam tổ chức Diễn đàn khoa học “Tập quán mai táng của người Việt Nam - xu hướng biến đổi và những vấn đề đặt ra”. Diễn đàn thu hút sự tham gia của trên 150 chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, các nhà quản lý văn hóa - xã hội, kinh tế, môi trường, đô thị thuộc các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố.

Chú thích ảnh
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: Thành Đạt/TTXVN

Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: Nhiều ý kiến từ các nhà khoa học, nhà quản lý cho rằng, hiện nay tập quán an táng của người Việt không chỉ là vấn đề xã hội, còn là vấn đề môi trường, đất đai và đô thị. Do vậy, các ý kiến đề nghị tăng cường quản lý, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách về kinh tế để đảm bảo phong tục, tập quán của dân tộc phù hợp với yêu cầu phát triển mới trên tinh thần văn minh. Bên cạnh đó, việc mai táng của người Việt Nam là vấn đề xã hội liên quan đến tập tục, truyền thống, không chỉ đơn thuần bằng các pháp luật, chính sách kinh tế, cần đi đôi với nghiên cứu sâu những góc độ văn hóa, xã hội. Phối hợp tất cả các giải pháp mới có định hướng, giải pháp nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực. Vì vậy, những nhà khoa học Việt Nam nói chung, đặc biệt là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam phải phối hợp nghiên cứu, đưa ra các góc nhìn khác nhau để có các kiến nghị cần thiết. 

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng: Tập quán mai táng của người Việt Nam gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần, tâm linh, tôn giáo của mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ; ở mỗi vùng, miền, mỗi tộc người đều có những lễ thức mai táng khác nhau. Đây là việc hệ trọng không chỉ đối với từng cá nhân, gia đình, dòng họ, còn trở thành vấn đề lớn đối với xã hội. Ngày nay, dân số gia tăng, tỷ lệ người già ngày càng cao, khi có người qua đời, mỗi gia đình phải lo phần hậu sự cho người quá cố. Tập tục mai táng truyền thống của người Việt Nam đã, đang bộc lộ nhiều bất cập gây ảnh hưởng không nhỏ về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường khu vực đô thị, nông thôn.

Hiện nay, ở vùng đồng bằng, đa số người Kinh có tập quán địa táng; tức là người chết được chôn xuống đất (hung táng), sau vài năm được cải táng (cát táng). Quy trình này có nhiều lễ thức phức tạp, tốn kém thời gian, chi phí, đồng thời làm cho môi trường đất, nước ở nhiều khu vực xung quanh các nghĩa địa bị ô nhiễm, trở thành nỗi ám ảnh, thậm chí tác động xấu đến sức khỏe của người dân sinh sống trong khu vực.

Ở vùng Tây Nguyên - nơi sinh sống của các dân tộc ít người, tuy đất đai còn tương đối rộng rãi nhưng lại có những tập tục mai táng lạc hậu, như: tục chôn chung của người Gia Rai, tục thiên táng của người Giẻ Triêng đã từng tồn tại trong cộng đồng cách đây không lâu, hiện vẫn còn dấu vết.

Ở các đô thị lớn, tình trạng “người sống ở gần người chết”, “người sống ở cùng người chết” đã, đang tồn tại như tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh..., nơi chôn cất, kinh phí, thủ tục cho việc mai táng người chết trở thành vấn đề lớn, không chỉ của các cá nhân, gia đình, còn của cả xã hội. Khi gia đình có người chết việc lựa chọn hình thức mai táng: địa táng hay hoả táng, chôn cất hay lưu giữ tro cốt... là việc đại sự. Vấn đề hộ khẩu, tiêu chuẩn, chế độ cũng không hề đơn giản. Đối với khu vực nông thôn, nhiều gia đình có người chết phải giải quyết vấn đề người xa quê có được mang thi hài, tro cốt về quê mai táng không? Người nghèo từ nơi khác đến có đủ tiền mua suất đất ở khu nghĩa trang để mai táng không? Đây chỉ là vài ví dụ đơn cử trong những vấn đề có tính thời sự, là những bài toán cần có lời giải.

Các ý kiến tại diễn đàn đều chung nhận định từ bao đời, người Việt truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác những phong tục tập quán về những việc cần làm đối với người đã mất. Từ việc tổ chức đám tang chu đáo với đầy đủ nghi lễ, xây dựng "mồ yên, mả đẹp" tới ngày giỗ, ngày Tết.

Hình thức và tập quán mai táng của người Việt Nam phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, địa hình và thủy văn, môi trường, quan niệm văn hóa và tín ngưỡng, tâm linh… ở từng vùng đất, từng dân tộc, nhưng đều bày tỏ lòng tiếc thương và biết ơn, thể hiện đạo hiếu và đạo nhân, nghĩa dành cho người đã khuất.

Tuy nhiên, bên cạnh những nét truyền thống, tín ngưỡng tốt đẹp, thời gian qua, việc tổ chức tang lễ, mai táng và xây dựng mồ mả đang bị biến tướng, tự phát, “đua tranh”. Thậm chí, ở một số nơi còn “sáng tác” thêm những “mục mới” về tang lễ, mai táng, mồ mả rất hình thức. Đã có sự ganh đua, khoe khoang... vì sĩ diện, vì các mối quan hệ cho người sống chứ không phải vì những nét truyền thống tốt đẹp.

Nghĩa trang ở nhiều nơi ở tình trạng tự phát, thiếu quản lý, có nơi nghĩa trang như một thành phố nhỏ, có nơi lộn xộn, nhếch nhác không chỉ ảnh hưởng đến đất ở, đất sản xuất, mỹ quan môi trường… còn gây ra tranh chấp, mất đoàn kết ở không ít nơi...

Vấn đề ô nhiễm môi trường do cải táng (bốc mộ), cúng lễ quá nhiều và đặt các khu vực chôn cất không theo quy hoạch, không đảm bảo vệ sinh môi trường ảnh hưởng lớn đến nhiều khu đô thị và cả ở nông thôn.

Điểm lại các hình thức mai táng từng tồn tại trong lịch sử, PGS.TS Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học nhận xét: Thực tế từ xưa đã có những quy định khá chặt chẽ về thủ tục mai táng, đồng thời đã tồn tại song song nhiều hình thức mai táng như địa táng, hoả táng, thiên táng. Đáng chú ý, hình thức hoả táng (điện táng) hiện nay đang trở thành một xu thế cần được thúc đẩy để tạo thành một tập quán mai táng, vừa tiếp nối truyền thống tâm linh vừa phù hợp với yêu cầu hiện nay về bảo vệ môi trường, gìn giữ đất đai.

Nhà sử học Dương Trung Quốc bày tỏ quan điểm “Chúng ta không nên nghĩ truyền thống là cái cũ mà tự thân truyền thống tiếp tục vận động để dân tộc tiếp tục phát triển trong hội nhập, tiếp cận với các nền văn hoá khác. Chúng ta tôn trọng tín ngưỡng của người dân, và cần vận động, thuyết phục để dần dần thay đổi tập quán mai táng của người dân như một đòi hỏi của xã hội”. 

Đồng tình với quan điểm này, Hoà thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho rằng trong điều kiện hiện nay cần xây dựng quy chuẩn mới về nghi lễ tang ma, mai táng sao cho trang nghiêm nhưng không gây tốn kém, tiết kiệm, gìn giữ môi trường. Đặc biệt, chúng ta phải có quy hoạch đối với các nghĩa trang, vừa đủ điều kiện thờ phụng, tín ngưỡng, tâm linh nhưng tiết kiệm đất đai một cách hiệu quả.

“Theo quan điểm Phật giáo người dân nên chọn hình thức hoả táng, điều này phù hợp với truyền thống tín ngưỡng, tâm linh của dân tộc. Cách đây 2.600 năm, khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử của Ngài đã chọn hình thức hoả táng cho dù lúc đó có nhiều hình thức như địa táng, thuỷ táng, điểu táng, lâm táng… Giáo hội đã tuyên truyền, đặc biệt là trong các phật tử, khi mất đi nên chọn hình thức hỏa táng hay điện táng ngày nay phù hợp với tình hình thực tế, không gây ô nhiễm môi trường, không bị lạm dụng về đất đai, không tốn kém, và vẫn thể hiện được lòng thành kính, tôn trọng đối với người đã mất”. 

Là địa phương có nhiều kinh nghiệm trong việc vận động người dân chuyển từ hình thức địa táng sang điện táng, Giám đốc Sở VHTT&DL Hà Nội Khuất Văn Thanh cho biết hiện nay quỹ đất để quy hoạch nghĩa trang trên địa bàn thành phố rất khó khăn. Chính quyền các cấp, các nhà khoa học, các nhà sư đã tích cực tham gia vận động, hỗ trợ người dân chuyển hình thức mai táng bằng địa táng sang sử dụng điện táng. Nếu trước năm 2010, Hà Nội chỉ có 6% gia đình sử dụng hình thức điện táng thì tỷ lệ này đến năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 đã đạt trên 60%, trong đó quận cao nhất là 90%, huyện cao nhất là 76%, nhiều phường, xã đạt 100%.

“Với hình thức điện táng, mỗi năm ước tính Hà Nội tiết kiệm khoảng 40 ha đất làm nghĩa trang và 600-800 tỷ đồng. Mục tiêu đến năm 2025 Hà Nội phấn đấu trên 90% gia đình sử dụng hình thức điện táng khi mai táng người thân”, ông Khuất Văn Thanh nói.

Nhiều nhà khoa học cũng kiến nghị một mặt cần phải có các quy định, chính sách khuyến khích người dân thực hiện các hình thức mai táng mới. Tuy nhiên, những quy định, chính sách này phải dựa trên, đồng hành với việc vận động người dân, trong đó cần phát huy vai trò tích cực của các tôn giáo, tổ chức xã hội để định hướng, tạo đồng thuận trong nhân dân. Mặt khác, chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền những vấn đề liên quan đến tập quán, phong tục mai táng đến cộng đồng, người dân và xã hội.

 

TH

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết