Bài viết góp phần bổ sung, hoàn thiện những quan điểm, nội dung cụ thể trong diễn đạt về các đột phá chiến lược được nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng (sau đây gọi tắt là Dự thảo báo cáo chính trị) trong nhiệm kỳ 2026–2030. Trên cơ sở nghiên cứu Dự thảo báo cáo chính trị, chúng tôi có những góp ý cụ thể như sau:

1. Về đột phá thể chế
Dự thảo báo cáo chính trị nêu: “Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, nâng cao năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để khơi thông, giải phóng và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý, quản trị phát triển giữa Trung ương và địa phương, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương; thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ, kiến tạo phát triển; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp mới; phát triển lực lượng sản xuất mới, các mô hình, phương thức sản xuất kinh doanh mới”[3].
Những định hướng này thể hiện tư duy đột phá và bắt nhịp với xu thế phát triển của thời kỳ mới. Tuy nhiên, để làm rõ hơn về thể chế phát triển và năng lực quản trị quốc gia là một trong các đột phá chiến lược phát triển đất nước, cần tiếp tục làm rõ hơn một số vấn đề trọng tâm sau:
Hoàn thiện thể chế để phát huy hiệu quả mọi nguồn lực phát triển là vấn đề cốt lõi, mang tính chất đột phá chiến lược quan trọng nhất nhất. Đây là nền tảng để tạo ra môi trường phát triển năng động, hiệu quả, thúc đẩy mọi nguồn lực trong xã hội, bao gồm: Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách; Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương; Thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Phát triển kinh tế tư nhân và hệ sinh thái khởi nghiệp và Đổi mới mô hình sản xuất, kinh doanh. Trong đó, ba điểm cần nhấn mạnh là: Thể chế linh hoạt, hiện đại: giúp chính sách đi vào thực tiễn, tránh tình trạng “chính sách tốt nhưng không thực hiện được”; Phân cấp, phân quyền thực chất: tạo động lực cho địa phương, tránh cơ chế xin – cho; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: là động lực mới của tăng trưởng, gắn với yêu cầu phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, nên chỉnh sửa và bổ sung các từ, cụm từ cho rõ ràng về nội dung và phù hợp theo gợi ý sau:
| Từ/cụm từ gốc | Đề xuất thay thế | Lý do chỉnh sửa |
| “khơi thông, giải phóng” | “phát huy hiệu quả” | Tránh ngôn ngữ khẩu hiệu, tăng tính chính sách cụ thể |
| “quản lý, quản trị phát triển” | “quản trị phát triển” hoặc “quản trị quốc gia” | “Quản lý” mang tính hành chính, “quản trị” thể hiện năng lực điều hành hiện đại. |
| “phục vụ, kiến tạo phát triển” | “phục vụ phát triển và kiến tạo giá trị mới” | Làm rõ vai trò của công nghệ trong tạo ra giá trị thay vì chỉ hỗ trợ. |
| “lực lượng sản xuất mới” | “mô hình sản xuất tiên tiến” | “Lực lượng sản xuất” là khái niệm kinh điển, nên dùng từ hiện đại hơn để phù hợp với ngữ cảnh đổi mới. |
| “phương thức sản xuất kinh doanh mới” | “mô hình kinh doanh đổi mới, sáng tạo” | Cụ thể hóa nội hàm, tránh trùng lặp với cụm trước. |
Kiến nghị diễn đạt lại tại Dự thảo báo cáo chính trị như sau:
“Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, tập trung hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ, hiện đại, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả thực thi; nâng cao năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy hiệu quả mọi nguồn lực xã hội.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương theo hướng rõ trách nhiệm, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương; thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản trị quốc gia.
Thúc đẩy mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phục vụ phát triển và kiến tạo giá trị mới; phát triển kinh tế tư nhân theo hướng lành mạnh, hiệu quả, bền vững; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; phát triển mô hình sản xuất tiên tiến, mô hình kinh doanh hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên số”.
2. Về đột phá phát triển nguồn nhân lực
Dự thảo báo cáo chính trị nêu: “Tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài; khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, dân chủ, thực chất, hiệu quả, nhất là công tác thẩm định, đánh giá cán bộ theo đúng chủ trương "có vào, có ra", "có lên, có xuống". Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở thực sự tiêu biểu, có tư duy, năng lực quản trị tiên tiến, phù hợp với mô hình tổ chức mới và yêu cầu phát triển bứt phá của đất nước”[4].
Trong nội dung này đề cập đến một trong những trụ cột chiến lược của phát triển đất nước: “Nguồn nhân lực” bao gồm những mục tiêu chính: Chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm thích ứng với yêu cầu mới của nền kinh tế tri thức, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Đổi mới công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ lãnh đạo có năng lực, phẩm chất, tư duy quản trị hiện đại. Trọng dụng nhân tài và bảo vệ cán bộ đổi mới tạo môi trường khuyến khích sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Tuy nhiên trong phần này, kiến nghị đưa thêm nội dung đổi mới trong công tác cán bộ Cần quan tâm tới phát hiện, trọng dụng và sử dụng nhân tài người Dân tộc thiểu số. Đảm bảo cơ cấu hợp lý đối với cán bộ, nhất là nữ cán bộ dân tộc thiểu số tham gia vào hệ thống chính trị các cấp. Đây là định hướng chiến lược nhằm tạo ra nguồn nhân lực trong tương lai có thể đủ sức dẫn dắt đất nước phát triển trong bối cảnh mới.
Để đáp ứng được với yêu cầu bứt phá của đất nước, thì cần phải làm rõ những vấn đề “Đột phá về phát triển nguồn nhân lực” - đây là động lực trung tâm của phát triển đất nước. Chuyển đổi định hướng phát triển nguồn nhân lực theo hướng hiện đại, toàn diện, gắn với yêu cầu của nền kinh tế số, xã hội tri thức và hội nhập quốc tế. Vấn đề cốt lõi là nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó trọng tâm nhấn mạnh về chất lượng nguồn nhân lực, ở đây chất lượng không chỉ là trình độ đạt được mà còn là năng lực dám đổi mới, thích ứng nhanh và có tư duy phản biện. Đồng thời đi đôi với đó cần phải có cơ chế trọng dụng và bảo vệ nhân tài, để khuyến khích đổi mới, tránh tâm lý “an toàn, né tránh”. Đặc biệt luôn cần đổi mới công tác cán bộ, có cơ chế đánh giá, thực hiện luân chuyển, đề bạt theo năng lực thực chất.
Để hoàn thiện nội dung này, một số chỉnh sửa về được đề xuất như sau:
| Từ/cụm từ gốc | Đề xuất thay thế | Lý do chỉnh sửa |
| “chuyển đổi cơ cấu” | “chuyển đổi định hướng phát triển” hoặc “đổi mới mô hình phát triển” | “Cơ cấu” dễ gây hiểu nhầm sang phân bổ ngành nghề, không phù hợp với ngữ cảnh nhân lực |
| “trình độ cao” | “đáp ứng yêu cầu phát triển mới” | Tránh lặp từ, mở rộng nội hàm từ trình độ sang năng lực tổng thể |
| “có vào, có ra”, “có lên, có xuống” | nên thay bằng “cơ chế điều động, luân chuyển, đánh giá minh bạch, công khai” | Tránh khẩu hiệu, tăng tính chính sách và chuyên nghiệp |
| “phù hợp với mô hình tổ chức mới” | nên cụ thể hóa: “phù hợp với yêu cầu quản trị hiện đại, tổ chức tinh gọn, hiệu quả” | Làm rõ nội hàm “mới” để tránh mơ hồ |
Kiến nghị diễn đạt lại tại Dự thảo báo cáo chính trị như sau:
“Tập trung đổi mới mô hình phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng hiện đại, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số, xã hội tri thức và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, có năng lực đổi mới sáng tạo, tư duy phản biện, kỹ năng số và khả năng thích ứng nhanh với môi trường biến động; Đẩy mạnh thu hút, trọng dụng và bảo vệ nhân tài; khuyến khích cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, dân chủ, thực chất, hiệu quả; hoàn thiện cơ chế điều động, luân chuyển, đánh giá minh bạch, công khai; Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở, thực sự tiêu biểu, có tư duy, năng lực quản trị hiện đại, phù hợp với yêu cầu tổ chức tinh gọn, hiệu quả và phát triển bứt phá của đất nước”.
3. Về đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Dự thảo báo cáo chính trị nêu: “Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ và đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; nhất là kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức, hạ tầng công nghệ phục vụ cho quá trình quản lý, quản trị và kiến tạo phát triển, hạ tầng phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu”[5].
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là nền tảng vật chất và công nghệ để thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, và bảo đảm phát triển bền vững. Nội dung bao gồm ba nhóm hạ tầng chính: Hạ tầng giao thông đa phương thức, nhằm kết nối vùng, liên vùng, quốc tế, giảm chi phí logistics, thúc đẩy liên kết kinh tế. Hạ tầng công nghệ, phục vụ quản lý nhà nước, quản trị phát triển, cung cấp dịch vụ công, hỗ trợ chuyển đổi số. Hạ tầng phục vụ các chuyển đổi chiến lược nhằm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây chính là định hướng tích hợp giữa phát triển vật chất và phát triển số, gắn với yêu cầu hiện đại hóa quốc gia và thích ứng với nền quản trị toàn cầu.
Vấn đề cốt lõi là phát triển hệ thống hạ tầng tích hợp - vừa vật lý, vừa số - để tạo nền tảng cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng và bảo đảm phát triển bền vững. Trong đó, ba điểm cần nhấn mạnh:
- Hạ tầng giao thông phải kết nối hiệu quả, giảm chi phí để tăng năng suất toàn nền kinh tế.
- Hạ tầng số là điều kiện để thực hiện chuyển đổi số trong quản lý, sản xuất và dịch vụ.
- Hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu là yêu cầu sống còn trong phát triển bền vững, nhất là trong điều kiện hiện nay Việt Nam là một trong nhiều quốc gia đang phải chịu những tổn thất nặng nề về vấn đề biến đổi khí hậu đang diễn ra thường xuyên, liên tục như hiện nay.
Để hoàn thiện nội dung này, một số chỉnh sửa về được đề xuất như sau:
| Từ/cụm từ gốc | Đề xuất thay thế | Lý do chỉnh sửa |
| “quản lý, quản trị” | “quản trị quốc gia” hoặc “quản lý nhà nước” | “Quản trị” thể hiện năng lực điều hành hiện đại; “quản lý” mang tính hành chính. Nên chọn một để tránh trùng lặp. |
| “kiến tạo phát triển” | “kiến tạo giá trị mới” hoặc “thúc đẩy phát triển bền vững” | Cụm từ “kiến tạo phát triển” dễ mơ hồ, cần làm rõ vai trò của hạ tầng trong tạo ra giá trị. |
| “đa phương thức” | “giao thông đa phương thức kết nối liên vùng” | Cụ thể hóa để tăng tính định hướng, tránh mơ hồ về kỹ thuật. |
| “chuyển đổi xanh” | nên bổ sung rõ nội hàm: “chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, tuần hoàn” | Giúp người đọc hiểu rõ hơn về mục tiêu và phương thức thực hiện. |
Kiến nghị diễn đạt lại tại Dự thảo báo cáo chính trị như sau:
“Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ và đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại, kết nối hiệu quả, thích ứng với yêu cầu phát triển mới; Ưu tiên phát triển hệ thống giao thông đa phương thức kết nối liên vùng, liên quốc gia, giảm chi phí logistics, thúc đẩy liên kết vùng và hội nhập kinh tế; Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng công nghệ phục vụ quản lý nhà nước, quản trị quốc gia, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, hỗ trợ chuyển đổi số trong các lĩnh vực trọng yếu. Phát triển hạ tầng phục vụ chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an toàn sinh thái, an ninh năng lượng và phát triển bền vững”.
Kết luận
Các đột phá chiến lược nêu trên là những xác định ưu tiên quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước trong nhiệm kỳ 2026–2030, tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn tiếp theo. Việc tổ chức thực hiện cần có sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của toàn xã hội. Đặc biệt, cần phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, cấp uỷ, chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và từng người dân trong quá trình phát triển./.
TS. Trần Thùy Dương[1]; TS. Bùi Văn Hải[2]
[1] Học viện Dân tộc, Bộ Dân tộc và Tôn giáo.
[2] Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng, tr.50.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng, tr.50-51.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tại Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng, tr.51.