Chủ Nhật, ngày 23 tháng 11 năm 2025

Vấn đề thoát bẫy thu nhập trung bình trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Ngày phát hành: 23/11/2025 Lượt xem 31

   

Tóm tắt:

 

Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và thoát bẫy thu nhập trung bình trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Chiến lược phát triển này được cộng đồng quốc tế đánh giá là vừa ấn tượng vừa thực tế, hơn bao giờ hết [1]. Tinh thần này đã được thể hiện rõ trong các Dự thảo Văn kiện của Đại hội XIV Đảng. Việc đạt được mục tiêu đầy tham vọng này, các nhân tố và nguồn lực kinh tế, chính trị, quốc tế… của Việt Nam đã được coi là đủ mạnh để đối mặt và xử lý những biến động phức tạp của địa chính trị và địa kinh tế. Thử thách lớn nhất đối với Việt Nam vẫn là duy trì đà tăng trưởng liên tục và bền vững, tránh tình trạng “kiệt sức giữa chừng”. Điều này phần lớn phụ thuộc vào tầm nhìn và quyết tâm khai thác, phát triển các yếu tố và nguồn lực văn hóa, xã hội, con người. Nhiều chuyên gia và học giả nước ngoài đồng ý rằng đây là thời kỳ quan trọng để Việt Nam trở thành một quốc gia thịnh vượng.

 

 

1.Thoát bẫy thu nhập trung bình trong các dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

 

Các văn kiện dực thảo trình Đại hội XIV của Đảng, tuy không đề cập nhiều đến bẫy thu nhập trung bình, nhưng thống nhất đánh giá rằng, đối với Việt Nam nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn còn lớn và gắn liền với khả năng bị tụt hậu.

Dự thảo Báo cáo Chính trị xác định, nguy cơ bao trùm đối với đất nước là “Trong 5 năm tới, đất nước ta sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những mặt gay gắt, nặng nề hơn so với giai đoạn trước. Phát triển kinh tế - xã hội chưa bền vững. Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra đã từng bước được khắc phục, song có mặt còn diễn biến phức tạp. Nguy cơ bao trùm là nguy cơ tụt hậu, nhất là về công nghệ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình” [2].

 

Trong Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới, vấn đề rơi vào bẫy thu nhập trung bình được thể hiện ở nhiều nội dung. Báo cáo nhắc lại lịch sử giai đoạn những năm đầu thế kỷ XXI và nhấn mạnh bài học về tổ chức thực hiện đường lối, khi chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế chưa đạt được kỳ vọng… Mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không hoàn thành; tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình”. Khi dự báo những kịch bản tích cực của sự phát triển đất nước đến năm 2045, Báo cáo cũng nói rõ: “Bên cạnh kịch bản tích cực, nền kinh tế trong những năm tới vẫn không ít khó khăn, nguy cơ bẫy thu nhập trung bình vẫn là thách thức lớn, già hóa dân số tăng nhanh, đặc biệt biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp… sẽ tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế - xã hội” [3].

 

Về những nguyên nhân và tình huống thực tế có khả năng dẫn đến nguy cơ, tính đến thời điểm trước năm 2024, các văn kiện chỉ ra những yếu tố: Tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi thập niên lại có xu hướng suy giảm so với thập niên trước đó; chất lượng nền kinh tế chưa cao do sự phát triển chưa ổn định bền vững, năng lực cạnh tranh vẫn yếu, vẫn cơ bản phát triển theo chiều rộng thay vì chiều sâu dựa trên khoa học công nghệ và nhân lực chất lượng cao; năng suất và nội lực hạn chế do tăng trưởng năng suất đang trên đà giảm, trong khi 95-96% doanh nghiệp trong nước là doanh nghiệp nhỏ với trình độ công nghệ thấp.

 

Để tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình, các văn kiện đều nhắc lại và phân tích mục tiêu phát triển vĩ mô và các giải pháp chiến lược cốt yếu mà Đại hội XIII của Đảng đã thông qua và đã được khẳng định: Phấn đấu đến năm 2030, 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, 100 năm thành lập Nước, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Những mục tiêu này, đòi hỏi nền kinh tế phải thay đổi mô hình tăng trưởng: Chuyển dịch sang phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Và, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2026-2030 từ 10%/năm trở lên để tạo đà bứt phá.

 

Có thể thấy rằng, các văn kiện nhận thức rất rõ “bẫy thu nhập trung bình” là một rủi ro chiến lược nghiêm trọng, cần phải và nhất thiết phải vượt qua trong “kỷ nguyên phát triển đột phá vươn mình của dân tộc” bằng cách đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, lấy công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực chính. Chỉ có như vậy thì đất nước mới có thể đạt được các mục tiêu kỳ vọng đặt ra đến năm 2030 và 2045.

 

Tổng Bí thư Tô Lâm trong nhiều bài viết và phát biểu của mình, đặc biệt từ cuối năm 2024 đến nay, luôn nhấn mạnh vấn đề thoát bẫy thu nhập trung bình và coi đó là một trong những mục tiêu chiến được vĩ mô mà Việt Nam cần phải đạt tới trước năm 2045.

 

Tổng Bí thư chỉ rõ, để vượt qua được bẫy thu nhập trung bình, thì phát triển kinh tế tư nhân phải được coi là “đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là “chìa khóa vàng” thoát bẫy thu nhập trung bình. Trong đột phá phát triển, thì “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn” cần phải tháo gỡ ngay và triệt để theo kế hoạch của 7 nghị quyết trụ cột để đất nước phát triển [4]. Ngày 17/3/2025 khi làm việc với Tiểu ban kinh tế -xã hội Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Nếu phát triển như giai đoạn vừa qua thì Việt Nam chỉ luôn đi sau so khu vực và thế giới, bẫy thu nhập trung bình luôn luôn rình rập, do đó phải hết sức tránh bẫy này; không có con đường nào khác ngoài con đường phát triển; chúng ta không thể đủng đỉnh được, không đi nhanh hơn sẽ bị tụt hậu” [5].

 

2. Về thực chất của bẫy thu nhập trung bình

 

“Bẫy thu nhập trung bình” (The Middle-Income Trap - MIT) là khái niệm kinh tế học phát triển, phản ánh tình trạng các quốc gia đã vượt qua mức thu nhập thấp (Low-income countries, LIC: 1,000 USD đầu người/năm theo tiêu chuẩn WB những năm 1990s, hay 1,135 USD theo tiêu chuẩn 2025), thoát khỏi giai đoạn nghèo đói và chậm phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình (Middle-income countries, MIC) nhưng nền kinh tế lại không tiếp tục tăng trưởng để vươn lên mức thu nhập cao (High-income countries, HIC: 10,000 USD GDP đầu người/năm theo tiêu chuẩn WB những năm 1990s, hay 13,395 USD theo tiêu chuẩn 2025), do không đáp ứng được những đòi hỏi tối ưu hoá ngày càng cao của một nền kinh tế đã “cất cánh” [6].

 

“Thoát MIT hay vượt qua bẫy thu nhập trung bình” là, cách diễn đạt dùng để chỉ một quốc gia, sau khi có thu nhập trung bình, nền kinh tế vẫn không dừng lại mà tiếp tục tăng trưởng mạnh để vượt qua mốc GDP 13,395 USD đầu người/năm, trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa, có thu nhập cao (High-income countries, HIC, trên 13,935 USD), nghĩa là “hóa rồng”. Hai mốc sinh tử của bẫy thu nhập trung bình là GDP 1,000 USD và 10,000 USD đầu người năm (tiêu chuẩn những năm 1990s hay 1,135 và 13,935 USD tiêu chuẩn 2025). Luẩn quẩn quá nhiều năm trong khoảng thu nhập 5-8,000 USD đầu người năm là mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.

 

Những đòi hỏi cao và rất cao để vượt qua bẫy này, theo Indermit Gill và Homi Kharas, gồm: 1). Chuyển từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa:  Khi bắt đầu tăng trưởng, các nền kinh tế đều có xu hướng đa dạng hóa. Nhưng xu hướng này phải đảo ngược thành chuyên môn hóa khi nền kinh tế đạt  tới một ngưỡng nào đó về hiệu quả tính trên quy mô tương ứng. Ở  Singapore, ngưỡng này là 2,500 USD người/năm. Một số nước khác từ 5,000 -  8,000 USD người/năm. 2). Có ý chí và có phương thức đổi mới công nghệ:  Khi các doanh nghiệp đạt tới “giới hạn công  nghệ” thì cần phải có sự xuất hiện của các công nghệ mới với doanh nghiệp mới. Đòi hỏi này phải được đáp ứng từ luật lệ, chính sách  đến bản thân doanh nghiệp. Chọn thời điểm thực hiện bước chuyển này và  xử lý được sự phản kháng của các nhóm lợi ích là thách thức lớn đối với các chính phủ. 3). Biết ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học: Chuyển ưu tiên chung cho giáo dục sang ưu tiên đầu tư cho R&D khi nền kinh tế đạt tới trình độ nào đó về chuyên môn hóa, đòi hỏi phải sản xuất được những sản phẩm mới với công nghệ mới. Thông thường, do không biết chính xác các R&D nào cần đầu tư, các chính phủ thường ưu tiên đầu tư chung cho giáo dục đại học và sau đại học.

 

Đây là những quan niệm khởi thuỷ của khái niệm “bẫy thu nhập trung bình” do Indermit Gill và Homi Kharas, đề xuất từ năm 2007 và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong kinh tế học. Lúc đó, tư tưởng của Indermit Gill và Homi Kharas chỉ là một lời cảnh báo đối với các quốc gia Đông Á rằng, có thể sẽ giống như Mỹ - Latin hay Trung Đông, Đông Á sẽ sa bẫy MIT do tăng trưởng kinh tế không đủ bứt phá để vào nhóm các nước thu nhập cao. Rất tiếc, lời cảnh báo của Indermit và Kharas gần 20 năm trước, đến nay vẫn có giá trị. Cả Thái lan, Malaysia, Philippines, Trung Quốc…, hiện vẫn chưa trở thành HIC [7].

 

Năm 2015, khi tư tưởng về bẫy thu nhập trung bình đã có ảnh hưởng khá lớn đối với thế giới, Indermit và  Kharas tiếp tục cảnh báo và nhấn mạnh: 1). Sa bẫy thu nhập trung bình chủ yếu là do thiếu một sự định hướng chính sách tin cậy, hợp lý ở các nền kinh tế đã đạt tới MIC. 2). Sự thành công trong quá khứ không đảm bảo cho thành công trong tương lai, các quốc gia châu Á thành công có thể bị mắc kẹt trong sự tự mãn (could become trapped by complacency). 3). Bẫy thu nhập trung bình là “một cái bẫy có thể bẫy các nước có thu nhập trung bình”, nghĩa là có thể tránh được [8].

 

Năm 2024, trong điều kiện căng thẳng địa chính trị và gia tăng chủ nghĩa bảo hộ trên phạm vi thế giới, Báo cáo phát triển thế giới của WB (WDR 2024, cũng do Indermit lãnh đạo thực hiện), một lần nữa đánh thức và cảnh báo mạnh mẽ các quốc gia đang phát triển về bẫy thu nhập trung bình. Theo WDR này, tính từ năm 1990 đến nay, tiếp nối được “4 con rồng châu Á”, mới chỉ có 34 nước/ vùng lãnh thổ thoát bẫy thu nhập trung bình, bứt phá thành công, trở thành các nước phát triển có thu nhập cao (HICs, WB coi Đài Loan và Hàn Quốc là hai nền kinh tế trở thành HIC sau 1990). 108 quốc gia đang phát triển còn lại vẫn đang ở mức MIC (từ 1,136 đến 13,935 USD đầu người năm, <20% thu nhập Mỹ), tức là vẫn có nguy cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình. Trong số đó có cả Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Thái Lan, Indonesia, Brazil, Malaysia… (những nước có thu nhập trung bình cao, Upper-middle income countries, UMIC) và Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan…(những nước có thu nhập trung bình thấp, Lower-Middle Income Countri, LMIC). Mặc dù Brazil, Mexico, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Malaysia, Thái Lan, Philippines… đã được xếp vào các công nghiệp mới, NICs [9].

Cụ thể, 28 trong số 34 nền kinh tế đã chuyển từ MIC sang HIC (6 quốc gia khác WDR 2024 không liệt kê và không có số liệu) gồm: Ma Cao với GNI đầu người 2024 là 73,046.9 USD, được xếp hạng là HIC từ 1994; Bahrain 28,810 HIC 2001; Barbados 23,660 HIC 2006; South Korea 35,490 HIC 2001 (nhưng trước đó 1990 đã được xếp hạng 10.000 USD đầu người); Malta 34,660 HIC 2002; Slovenia 31,640 HIC 1997-1998; Estonia 28,770 HIC 2006; Czechia 29,140 HIC 2006-2009; Puerto Rico 25,930 HIC 1998; Saudi Arabia 35,570 HIC 2004-2010; Portugal 26,620 HIC1994-2001; Romania 17,600 HIC 2021; Slovakia 23,900 HIC 2007; Croatia 22,080 HIC 2017; Poland 21,560 HIC 2009; Chile 15,750 HIC 2012; Lithuania 26,950 HIC 2012-2015; Latvia 21,930 HIC 2012-2014; St. Kitts and Nevis 22,310 HIC 2011-2012; Oman 19,280 HIC 2007; Grece 23,030 HIC 1996-2001; Guyana 20,220 HIC 2022; Uruguay 21,580 HIC 2012; Hungary 20,690 HIC 2014; Panama 17,960 HIC 2021; Trinidad and Tobago 20,000 HIC 2006; Antigua and Barbuda 21,380 HIC 2012; Seychelles 17,460 HIC 2014 [10].

 

Nhìn nhận về 34 nền kinh tế đã thoát bẫy thu nhập trung bình trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế 30 năm qua, có thể thấy, các quốc gia/ vùng lãnh thổ này đã tạo nên ba thập kỷ đầy hưng phấn đối với các nước đi sau. Tuy nhiên, về phương thức thoát bẫy thu nhập trung bình, cần lưu ý rằng, trong số 34 nền kinh tế đó, 13 nước Trung nam Âu và Baltic được hưởng lợi khá nhiều khi gia nhập EU, một cộng đồng có hạ tầng rất thích hợp để các nước mới gia nhập chuyển đổi mạnh sang kinh tế thị trường, có văn hoá truyền thống Tây Âu gần gũi, có kinh nghiệm thu hút đầu tư và phát triển công nghệ mới... Hai nền kinh tế mới nổi khác là Chile và Saudi Arabia lại là các nước rất giàu tài nguyên được hưởng lợi khi thế giới chuyển đổi phương thức tiêu thụ năng lượng. Ở Đông Á thì Hàn Quốc và Đài Loan lại bứt phá từ trước những năm 1990 bằng phương thức quản trị tập trung hoá (Centralized Management) ưu tiên đầu tư công nghệ cao, giáo dục khai phóng, chú trọng xuất khẩu và chuyển mạnh sang đổi mới - sáng tạo nội địa. “Chaebol và Phép lạ sông Hàn” (Chaebols and Miracle of the Han River) của Hàn quốc hay “Dân chủ hoá bất ngờ” (Sudden Democratization) của Đài Loan, lại là những hiện tượng tương đối đặc biệt để Đông Á thoát bẫy thu nhập trung bình.

 

Thực ra, cả 34 nền kinh tế thoát bẫy thu nhập trung bình sau 1990 mới chỉ có gần 250 triệu người (bằng dân số của Indonessia) thoát khỏi hai phần ba dân số thế giới có mức sống 1-2 USD ngày. 108 nước MIC còn lại vẫn chìm trong mức GNI đầu người từ 1,135 đến 13,935 USD đang khao khát sớm có thu nhập cao. Trung Quốc từ hai thập kỷ qua bứt phá ngoạn mục nhưng vẫn còn là UMIC với mục tiêu trở thành HIC vào năm 2035; Ấn Độ vẫn còn là LMIC với mục tiêu trở thành HIC vào năm 2047; và Việt Nam với chiến lược phát triển bứt phá vươn mình, đang tiến hành những bước cải cách để đạt mục tiêu trở thành HIC vào năm 2045, 100 năm thành lập Nước.

 

Vấn đề đáng lưu ý ở đây là, trong lịch sử thoát nghèo để trở thành MIC, dù đó là một lịch sử hết sức gian nan, và có thể có sự chi phối của những yếu tố ngẫu nhiên hay bất ngờ của hoàn cảnh, nhưng dẫu sao nhiều nước, trong đó có Việt nam, đã thực hiện được, hay về cơ bản là đã thực hiện được. Tuy vậy, từ thoát nghèo đến giàu có và thịnh vượng, tức là từ MIC đến HIC lại là một quá trình phức tạp, khó khăn và khó kiểm soát hơn gấp nhiều lần. Cuối những năm 80 (thế kỷ XX), Indonesia đã từng được đánh giá là một con rồng châu Á trong tương lai gần. Malaysia, Philipines, Thailand cũng được coi là những nước có thể có bứt phá nhanh. Một số nước Trung Đông cũng có tốc độ tăng trưởng tốt trong một thời gian dài. Peru và vài nước Mỹ Latin khác cũng được kỳ vọng cất cánh vào những năm 80. Nhưng đến nay, các nước này vẫn kẹt lại trong bẫy MIT. Tấm gương Singapore và Hongkong, Ireland và Slovenia, Hàn quốc và Đài Loan…, hoá ra là những mô hình phát triển khá đặc thù trong những hoàn cảnh quốc tế khác biệt, khiến việc tìm kiếm kinh nghiệm để các quốc gia đi sau học hỏi trở nên không dễ dàng.

 

Thoát bẫy thu nhập trung bình là một thách thức rất lớn, không đơn giản chỉ là vượt qua những rào cản kinh tế để tối ưu hoá các quá trình tăng trưởng. Với các nước chậm phát triển từng vươn lên thành các nước NICs hoặc các nước và HICs, bên cạnh nguyên nhân kinh tế ngoạn mục, còn có những nguyên nhân thuộc về văn hoá, con người, thể chế… thậm chí ngoạn mục hơn - những nguyên nhân được định hướng bởi một nền văn hoá và khoa học xã hội mạnh, gắn liền với tự do - dân chủ xã hội, với đời sống tinh thần cởi mở - nhân văn, với một thể chế xã hội dung hợp (Inclusive Institutions), có có môi trường học thuật lành mạnh, có những trường đại học và những trung tâm văn hoá - khoa học thứ hạng cao, có đội ngũ chuyên gia và công chức chuyên nghiệp, có mặt bằng dân trí cao với ý chí phát triển mạnh mẽ, có tầng lớp trung lưu đông đảo, có giới trí thức mang trách nhiệm xã hội sâu sắc…

 

Chính vì thế, cũng trong “Báo cáo phát triển thế giới” WDR 2024, trên cơ sở những kinh nghiệm 50 năm thành bại của các nước đang phát triển, WB đã đề xuất một lý thuyết tăng trưởng (mà theo các chuyên gia WB là đơn giản nhưng đáng tin cậy) để tránh hoặc thoát bẫy MIT. Trong sự biến động phức tạp của tình hình địa kinh tế - chính trị thế giới hiện nay, Báo cáo này đề xuất một “cách tiếp cận tuần tự, theo ba mũi nhọn” (Sequenced, three-pronged Approach): đầu tiên là đầu tư (Investment), tiếp sau đó là truyền dẫn dầu tư và công nghệ mới (Infusion), và cuối cùng là đổi mới - sáng tạo (Innovation). Cách tiếp cận này gọi tắt là “3i”. Đây là mô hình thoát MIT với những giai đoạn tuần tự và kết hợp, đòi hỏi một sự linh hoạt trong chính sách, nhằm đến các mục tiêu: “doanh nghiệp ngày càng năng động, lao động ngày càng năng suất và nền kinh tế ngày càng tiết kiệm năng lượng” (increasingly dynamic enterprises, an increasingly productive workforce, and an increasingly energy-efficient economy). Theo Indermit Gill, để thoát MIT, các nước có thu nhập MIC cần 2 quá trình chuyển đổi, chứ không phải một. “Đầu tư” và “truyền dẫn” là quá trình thứ nhất, tập trung vào việc bắt chước (Imitating) và phổ biến các công nghệ hiện đại. Trong quá trình thứ hai, “đổi mới - sáng tạo” được bổ sung vào hỗn hợp đầu tư và truyền dẫn công nghệ, nhằm tăng cường năng lực nội sinh, gia tăng giá trị cho các công nghệ được áp dụng, “tự trở thành những nhà đổi mới -  sáng tạo” (becoming innovators themselves). Vấn đề là ở chỗ kết hợp ba động lực tăng trưởng - đầu tư, truyền dẫn và đổi mới sáng tạo. Việc chuyển đổi từ tăng trưởng dựa vào đầu tư sang tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo là bước nhảy sinh mệnh, đòi hỏi phải có chính sách ưu tiên cao (Higher priority) cho giai đoạn truyền dẫn và đổi mới sáng tạo (các nước không thoát được bẫy MIT đều ưu tiên cao cho giai đoạn đầu tư, nhưng lại không tiếp tục ưu tiên cao cho hai giai đoạn sau - truyền dẫn và đổi mới sáng tạo[11].

 

Cố nhiên, bẫy thu nhập trung bình trước hết là những rào cản kinh tế. Nhưng để đạt được các mục tiêu kinh tế, tối ưu hoá các quá trình tăng trưởng, khai thác hiệu quả các nguồn lực, giải phóng được các tiềm năng, thu hút được các tiến bộ công nghệ thế giới… ở trình độ một quốc gia có thu nhập cao, có đời sống xã hội được công nghiệp hoá, thì con người không thể chỉ thuần tuý là công cụ của tăng trưởng kinh tế, đời sống vật chất và đời sống văn hoá - tinh thần không thể mâu thuẫn hay đối đầu nhau, thể chế phát triển không thể đi ngược xu hướng tiến bộ, lành mạnh, nhân văn của sự phát triển con người và xã hội.

 

Để thoát MIT, nếu nguyên nhân kinh tế là tối ưu hoá các quá trình và các nguồn lực tăng trưởng, thì nguyên nhân văn hoá - xã hội là xây dựng được các động lực phát triển lành mạnh.

 

3. Kết luận

 

Trên con đường phát triển, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Tức là sẽ thoát bẫy MIT. Trong bối cảnh thế giới phức tạp, cạnh tranh và đối đầu gay gắt, chủ nghĩa bảo hộ trắng trợn… như hiện nay, để đạt được mục tiêu đó, từ cuối năm 2024, Việt Nam đã thực hiện chiến lược phát triển đột phá, với những bước đi có ý nghĩa cách mạng như tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, sửa đổi hiến pháp, cách mạng tinh gọn bộ máy, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế và thúc đẩy phát triển kinh tế nhằm tăng trưởng hai con số... Đây là những nỗ lực to lớn, khai thác cơ hội ngặt nghèo của những tình huống thế giới không mấy thuận lợi nhằm đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hơn bao giờ hết, chiến lược và quyết tâm thoát bẫy thu nhập trung bình để gia nhập đội ngũ các quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam, lại ấn tượng và có đủ cơ sở thực tế như hiện nay, trong dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Để đạt được khát vọng cháy bỏng này, các nhân tố và các nguồn lực kinh tế, chính trị và quốc tế… được coi là đã đủ để đáp ứng mọi biến động. Vấn đề chỉ còn là khả năng duy trì đà tăng trưởng liên tục và bền vững, tránh bị “kiệt sức” tăng trưởng giữa chừng. Điều này lại phục thuộc vào tầm nhìn và thiện chí trong quá trình kích hoạt và bồi đắp các nhân tố và các nguồn lực văn hoá - xã hội - con người. Nhiều chuyên gia và học giả nước ngoài đều đồng thuận rằng, đây là giai đoạn đầy ý nghĩa cho một Việt Nam thịnh vượng.

 

Cơ hội thành công lớn và khát vọng đạt tới thu nhập cao là khả thi, nếu khía cạnh văn hoá của bẫy thu nhập trung bình được kiểm soát, các chỉ số văn hoá - con người của sự phát triển kinh tế được đảm bảo, tư duy và tầm nhìn khoa học xã hội thấm sâu trong các chính sách.

 

   Hồ Sĩ Quý *

 

Tài  liệu trích dẫn:

  1. Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-cua-dang-119251015163630117.htm
  2. Indermit Gill, Homi Kharas (2007). Indermit gill homi kharas (2007). An East Asian Renaissance Ideas for Economic Growth. Pub.: WB. https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/5c7eaa0e-8a31-5726-ba94-f079c970c870/content.
  3. Indermit S. Gill, Homi Kharas (2015). The Middle-Income Trap Turns Ten. c.4. https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/883a42f3-c08a-5193-a5d3-f76b6d53e027/content.
  4. Tô Lâm (2025). Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. https://nhandan.vn/special/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-don-bay-cho-VN-thinh-vuong/index.html
  5. Tô Lâm (21/10/2024). Phát biểu tại Kỳ họp thứ 8, QH khóa XV. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm
  6. Tô Lâm (13/1/2025). Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KHCN, ĐMST& CĐS quốc gia. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-102250113125610712.htm
  7. Tô Lâm (2025). Phát biểu tại buổi làm việc với Tiểu ban Kinh tế-Xã hội Đại hội XIV của Đảng. https://nhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-lam-viec-voi-tieu-ban-kinh-te-xa-hoi-dai-hoi-xiv-cua-dang-post865682.html
  8. Toàn văn 7 NQ 57, 59, 66, 68, 70, 71, 72 của BCT. https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/toan-van-7-nghi-quyet-57-59-66-68-70-71-72-cua-bo-chinh-tri-quan-diem-chi-dao-cua-7-nghi-quyet-cua--593940-236344.html.
  9. WB (2025). Understanding country income: World Bank Group income classifications for FY26 (July 1, 2025–June, 2026). https://blogs.worldbank.org/en/opendata/understanding-country-income--world-bank-group-income-classifica
  10. WB-Astralian Aid (2025). Viet Nam 2045: Breaking Through Institutions for a High-Income Future.https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/76d0c91e-94ad-4cc4-ad17-841237ff9d3a/content
  11. WB (2024). World Development Report 2024. The middle-income trap. https://www.slideshare.net/slideshow/world-bank-world-development-report-2024/270769968#1
  12. WB (2024). World Development Report 2024. Ibis. c.34-35.

 

 



* GS.TS., Ủy viên Hội đồng lý luận TW.

[1]. WB-Astralian Aid (2025). Viet Nam 2045: Breaking Through Institutions for a High-Income Future. https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/76d0c91e-94ad-4cc4-ad17-841237ff9d3a/content

[2]. Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-cua-dang-119251015163630117.htm (Dự thảo Báo cáo Chính trị).

[3]. Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Tlđd. (Dự thảo Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới).

[4]. Tô Lâm (2025). Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. https://nhandan.vn/special/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-don-bay-cho-VN-thinh-vuong/index.html // Tô Lâm (21/10/2024). Phát biểu tại Kỳ họp thứ 8, QH khóa XV. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm // Tô Lâm (13/1/2025). Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KHCN, ĐMST  & CĐS quốc gia. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-102250113125610712.htm // Toàn văn 7 NQ 57, 59, 66, 68, 70, 71, 72 của BCT. https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/toan-van-7-nghi-quyet-57-59-66-68-70-71-72-cua-bo-chinh-tri-quan-diem-chi-dao-cua-7-nghi-quyet-cua--593940-236344.html.

[5]. Tô Lâm (2025). Phát biểu tại buổi làm việc với Tiểu ban Kinh tế-Xã hội Đại hội XIV của Đảng. https://nhandan.vn/tong-bi-thu-to-lam-lam-viec-voi-tieu-ban-kinh-te-xa-hoi-dai-hoi-xiv-cua-dang-post865682.html

[6]. WB (2025). Understanding country income: World Bank Group income classifications for FY26 (July 1, 2025–June, 2026). https://blogs.worldbank.org/en/opendata/understanding-country-income--world-bank-group-income-classifica

[7]. Indermit Gill, Homi Kharas (2007). Indermit gill homi kharas (2007). An East Asian Renaissance Ideas for Economic Growth. Pub.: WB. https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/5c7eaa0e-8a31-5726-ba94-f079c970c870/content.

[8]. Indermit S. Gill, Homi Kharas (2015). The Middle-Income Trap Turns Ten. c.4. https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/883a42f3-c08a-5193-a5d3-f76b6d53e027/content.

[9]. WB (2024). World Development Report 2024. The middle-income trap. https://www.slideshare.net/slideshow/world-bank-world-development-report-2024/270769968#1

[10]. WB (2024). World Development Report 2024. Ibis. c.34-35.

[11]. WB (2024). World Development Report 2024. Ibis. c. 5.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết