1. Nhận thức về công nghiệp văn hóa và sáng tạo
Năm 1982, UNESCO đưa ra nghiên cứu Cultural Industries - a challenge for the future of culture [tạm dịch: Công nghiệp văn hóa - một thách thức cho tương lai của văn hóa]. Đến Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn hóa được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) tháng 4-1998, thuật ngữ “công nghiệp văn hóa” đã được gần 200 quốc gia thông qua. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều tên gọi khác nhau giữa các tổ chức và các quốc gia về vấn đề này. Trong khi UNESCO gọi đây là “công nghiệp văn hóa” (Cultural industries) thì Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) gọi là “công nghiệp bản quyền” (Copyright industries), người Mỹ coi đây là “công nghiệp giải trí” (Entertainment industries), Hội đồng Anh lại gọi đây là “nền kinh tế sáng tạo” (Creative economy)...

Hội xòe ở Mường Lò, Nghĩa Lộ, Yên Bái.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về “công nghiệp văn hóa”, song khái niệm “công nghiệp văn hóa” được UNESCO đưa ra năm 2007 đã được nhiều quốc gia thừa nhận, sử dụng như một “công cụ” quan trọng để xây dựng và phát triển ngành công nghiệp này. Có thể hiểu: “Công nghiệp văn hóa là các ngành sản xuất ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác những giá trị văn hóa và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ dựa vào tri thức (kể cả những giá trị văn hóa hiện đại và truyền thống)”[1].
Đồng thời, UNESCO xác định công nghiệp văn hóa gồm 11 lĩnh vực chính là: (1) quảng cáo, (2) kiến trúc, (3) công nghệ kỹ thuật số, (4) mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, (5) thiết kế mỹ thuật, (6) phim ảnh và video, (7) in ấn xuất bản, (8) âm nhạc, (9) nghệ thuật biểu diễn, (10) phát thanh truyền hình và (11) phần mềm điện tử.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution - FIR) đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử từ năm 2011 đặc trưng là điều khiển hệ, và Robot; các hệ thống liên kết thế giới “thực- ảo” do: Sự đột phá của KHCN dựa trên nền tảng công nghệ số tích hợp công nghệ “thông minh” để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Điểm “đòn bẩy” là: trí tuệ nhân tạo (AI); công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, CN vật liệu mới, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet kết nối dịch vụ (IoS).
Qui mô tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử, tốc độ phát triển cấp số nhân, tác động to lớn về kinh tế và môi trường sinh thái. Tiêu chí tốc độ lan truyền của công nghệ được sử dụng đạt ngưỡng 50 triệu người (điện thoại 75 năm, radio cần 38 năm, tivi cần 13 năm, Internet chỉ cần 4 năm, Facebook cần 3,5 năm). Về kinh tế tác động đến tiêu dùng, sản xuất, năng xuất và giá cả. Bản đồ kinh tế thế giới, bản đồ sức mạnh của các doanh nghiệp cũng đang được vẽ lại.
Các ngành công nghiệp văn hóa trên phạm vi thế giới đã và đang thích ứng với công nghệ tiên tiến, hiện đại mới nổi và với các chính sách quốc gia, vùng miền và của các nhà lãnh đạo quốc tế. Những nhân tố này thay đổi hoàn toàn phạm vi mà các thương phẩm văn hóa, dịch vụ và vốn đầu tư dịch chuyển giữa các quốc gia, và do đó những ngành công nghiệp này đã và đang trải qua một quá trình quốc tế hóa và tập trung phát triển không ngừng, dẫn đến sự hình thành của một số tập đoàn lớn: một sự độc quyền thiểu số bán toàn cầu mới.
Nhận định về công nghiệp văn hóa và vai trò của nó, Báo cáo Kinh tế sáng tạo của Liên hợp quốc năm 2008 nhấn mạnh: “Trung tâm của kinh tế sáng tạo nằm ở các ngành kinh tế sáng tạo. Ngày nay, công nghiệp sáng tạo bao hàm sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau của các yếu tố truyền thống, công nghệ cao, và cung cấp các dịch vụ nghệ thuật bao gồm nghệ thuật dân gian, lễ hội, âm nhạc, sách, báo, mỹ thuật, trình diễn nghệ thuật đến ngành cần công nghệ cao như phim, phát thanh truyền hình, phim hoạt hình, trò chơi điện tử, các lĩnh vực cung cấp dịch vụ như dịch vụ kiến trúc, quảng cáo. Tất cả các hoạt động trên đòi hỏi sự sáng tạo cao và có thể tạo ra thu nhập thông qua các hoạt động thương mại và các quyền về sở hữu trí tuệ. Kinh tế sáng tạo có tiềm năng sinh ra lợi nhuận, tạo công ăn việc làm, mở ra các cơ hội mới để hội nhập với những khu vực kinh tế phát triển cao trên thế giới”.
Ở Việt Nam, khái niệm “công nghiệp văn hóa” lần đầu tiên được ghi nhận trong văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2014) đã xác định: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”[2] là một trong 6 nhiệm vụ quan trọng để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Ngày 08/9/2016, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với quan điểm: Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Theo Chiến lược này, công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm 12 lĩnh vực: (1) Quảng cáo; (2) kiến trúc; (3) phần mềm và các trò chơi giải trí; (4) thủ công mỹ nghệ; (5) thiết kế; (6) điện ảnh; (7) xuất bản; (8) thời trang; (9) nghệ thuật biểu diễn; (10) mỹ thuật, (11) nhiếp ảnh và triển lãm; (12) truyền hình và phát thanh. Du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam.
Ngày 09-6-2020, kết luận của Bộ Chính trị đánh giá hiệu quả triển khai nghị quyết 33 đã xác định một trong các giải pháp trọng tâm để phát triển công nghiệp văn hóa là "Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa; đồng thời nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường".
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23-02-2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan; cùng 2 bộ luật Kiến trúc, Luật thư viện, 2 nghị định về triển lãm và hoạt động nghệ thuật biểu diễn được đề xuất chỉnh sửa cập nhật và ban hành hướng dẫn thực thi chính là những hành động thiết thực của Chính phủ nhằm cụ thể hóa tầm nhìn trên.

2. Những cơ hội, thách thức, mô hình và kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và phát triển về công nghiệp văn hóa và sáng tạo
Thực tế của các nước phát triển cho thấy, công nghiệp văn hóa có thể phát triển nhanh hơn các ngành công nghiệp khác vì đầu tư vật chất cho ngành công nghiệp này không lớn, chủ yếu là đầu tư chất xám và quảng bá sản phẩm nhưng lại có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Văn hóa hiện đại không chỉ là động lực tinh thần nâng đỡ trí lực của phát triển kinh tế, xã hội mà còn là bộ phận quan trọng của hiện đại hóa kinh tế. Bản thân văn hóa có sức mạnh kinh tế, sức mạnh khoa học - kỹ thuật. Ngày nay, trên phạm vi thế giới, các công ty sản xuất những sản phẩm văn hóa như tivi, phim ảnh, xuất bản, video, trình diễn văn nghệ, mỹ thuật công nghiệp, thi đấu thể dục thể thao, tin tức, truyền thanh, vui chơi giải trí… đã phát triển thành những tập đoàn công nghiệp khổng lồ, trở thành bộ phận trọng yếu trong kết cấu kinh tế quốc dân. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có những đột phá về đổi mới xây dựng văn hóa, trong đó có đột phá về xây dựng công nghiệp văn hóa. Thực tiễn đổi mới và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đổi mới văn hóa có thể kích thích và thúc đẩy đổi mới nhận thức, đổi mới hành vi và đổi mới tổ chức.
Các nước phát triển như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, hay gần đây là Hàn Quốc và Trung Quốc, công nghiệp văn hóa thực sự trở thành trụ cột của nền kinh tế, chiếm tỉ trọng lớn trong GDP của mỗi quốc gia:
Ở Vương quốc Anh, ngành công nghiệp văn hóa được xem là một lĩnh vực thuộc kinh tế sáng tạo. Với tư cách là một trong những quốc gia đi đầu trong phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo - công nghiệp văn hóa, họ đã đưa ra quan điểm: các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo được định nghĩa là các “ngành có nguồn gốc đến từ sự sáng tạo, kỹ năng và tài năng cá nhân, và có khả năng tạo ra của cải và công việc thông qua việc hình thành và khai thác tài sản trí tuệ” (Báo cáo về các ngành công nghiệp sáng tạo của Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Vương quốc Anh, 2001)[3].
Song song với những chuyển đổi trong chính sách của Nhà nước, Chính phủ Anh cũng tăng cường khuyến khích sự đầu tư vào văn hóa từ khối tư nhân. Những chương trình này được gọi là BSIS (Business Sponsorship Incentive Scheme - Chương trình khuyến khích khối kinh doanh tài trợ) và hầu hết đều do Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao tài trợ và Cơ quan nghệ thuật và kinh doanh quản lý. Mục đích của các chương trình này đều nhằm khuyến khích các mối quan hệ ổn định giữa kinh doanh và nghệ thuật. Có một số chương trình nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác nhà nước - tư nhân bằng cách sử dụng các ưu đãi về thuế quan.
Ở Hàn Quốc, qua nhiều giai đoạn phát triển, mặc dù các mục tiêu văn hóa của từng thời kỳ có những thay đổi nhất định tùy thuộc theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước, tuy nhiên các mục tiêu chủ yếu và thường xuyên trong chính sách văn hóa Hàn Quốc vẫn được duy trì ổn định. Đó là: (i) xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc; (ii) phát triển văn hóa, nghệ thuật; (iii) nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của nhân dân; (iv) thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa hiện nay, hơn bao giờ hết, Chính phủ Hàn Quốc nhận thấy tầm quan trọng của văn hóa nghệ thuật trong phát triển kinh tế và xã hội. Các chính sách như “Hàn Quốc sáng tạo” (Creative Korea) (2004), “C-Korea 2010” và Kế hoạch phát triển nghệ thuật trung hạn và dài hạn “Sức mạnh của nghệ thuật” (2004) đều thể hiện một tầm nhìn, trong đó văn hóa, du lịch, thể thao và giải trí là động lực thúc đẩy và định hướng cho sự phát triển xã hội của quốc gia và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển công nghiệp văn hóa, Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra một số ưu tiên và thay đổi nhằm đáp ứng nhu cầu của hoàn cảnh mới.
Ở Nhật Bản, từ những năm 1980, Chính phủ Nhật Bản bắt đầu chú trọng những chính sách thúc đẩy sự phát triển văn hóa nghệ thuật. Quỹ Hỗ trợ phát triển văn hóa nghệ thuật được thành lập với 50 tỉ yên của Chính phủ và 10 tỉ yên huy động từ người dân. Năm 2001, “Luật cơ bản khuyến khích nghệ thuật và văn hóa” gồm 35 điều (trong đó có 28 điều (từ điều 8 đến điều 35) là các chế định liên quan đến khuyến khích phát triển văn hóa nghệ thuật) ra đời được đánh giá như là thời khắc chuyển giao từ phương thức “quản lý hành chính văn hóa” sang “chính sách văn hóa”. Từ đây, các chính sách cơ bản về văn hóa được phê duyệt bởi nội các - giống như các chính sách cơ bản khác của nhà nước, thay vì chỉ là những chính sách của riêng Bộ Giáo dục và Văn hóa như trước đây.
Ở Trung Quốc, sự xuất hiện của các ngành nghề văn hóa trong quá trình Trung Quốc đi sâu cải cách kinh tế, đã thúc đẩy Chính phủ đưa ra một số chính sách nới lỏng sự ràng buộc đối với các ngành nghề văn hóa từ đó hình thành thị trường văn hóa. Năm 1988, Bộ Văn hóa và Cục Quản lý hành chính công thương Trung Quốc đã thống nhất ban hành Thông tư về việc tăng cường công tác quản lý thị trường văn hóa. Đây là văn kiện chính thức đầu tiên đưa ra công nhận “thị trường văn hóa” là một phần tất yếu của ngành công nghiệp văn hóa. Văn kiện chỉ rõ phạm vi, trách nhiệm, nguyên tắc, phương châm quản lý thị trường văn hóa. Từ khi được công nhận tính pháp lý, thị trường văn hóa của Trung Quốc đã phát triển theo hướng đa dạng với các hình thức giải trí phổ biến giống với phương Tây như: Bia, karaoke, trò chơi điện tử…
Như vậy, có thể khái quát một số kinh nghiệm khá hữu ích của các quốc gia đối với Việt Nam. Đó là:
(1)- Kinh nghiệm trong xây dựng hệ thống chính sách đa dạng, linh hoạt; dựa vào việc khai thác tốt tiềm năng văn hóa, nhất là những lợi thế cạnh tranh, gắn kết giữa bảo đảm thị trường trong nước với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ra nước ngoài. Đặc biệt, điểm chung trong chính sách của các quốc gia trên là từng bước chuyển giao mô hình quản lý tập trung, kế hoạch hóa, bao cấp hóa của Nhà nước sang thực hiện phương thức quản lý phi tập trung hóa với việc chuyển từ chính phủ ra quyết định và quản lý sang thực hiện hợp tác giữa chính phủ và các khu vực tư nhân.
Điều này đã thúc đẩy sự tham gia của nhiều bộ phận xã hội từ chính quyền trung ương, chính quyền địa phương cho đến các nhà nghiên cứu, giáo sư, nghệ sĩ và cộng đồng trong quá trình hoạch định chính sách văn hóa được khuyến khích. Xu hướng này đảm bảo cho việc chính sách văn hóa không phải được áp đặt từ trên xuống mà phải được xây dựng dựa trên việc khảo sát nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội, của người dân. Đây là hướng đi khá phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh ngân sách nhà nước đang phải dàn trải trên nhiều lĩnh vực, khó khăn cho việc tập trung đầu tư cho các ngành công nghiệp văn hóa.
(2)- Kinh nghiệm trong xây dựng, ban hành chính sách đa dạng về thuế, tài chính, đầu tư, kết hợp công tư, nguồn nhân lực, luật có định hướng, chiến lược lâu dài, ổn định, rõ ràng đều đúng theo thị trường, coi trọng vấn đề sáng tạo, bản quyền và sở hữu trí tuệ.
(3)- Kinh nghiệm trong xây dựng hệ thống quản lý chặt chẽ với hệ thống luật và vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước.
(4)- Bài học trong xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực sáng tạo. Trong đó, ưu tiên là xây dựng hệ thống trường lớp, trung tâm đào tạo chính quy của Nhà nước kết hợp với các loại hình đào tạo bán chuyên nghiệp khác.
(5)- Bài học trong xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ nghệ sĩ trẻ với những giải pháp cụ thể về vốn, cơ hội thể nghiệm, tạo điều kiện hỗ trợ đưa sản phẩm ra thị trường…
Mặt khác, công nghiệp văn hóa chịu sự chi phối của các quy luật và nguyên tắc của kinh tế thị trường, tại đó, sản phẩm và dịch vụ văn hóa là hàng hóa có thể mua bán, trao đổi, cạnh tranh trên thị trường. Cũng như các sản phẩm công nghiệp khác, sản phẩm văn hóa với điểm khởi đầu là sáng tạo cá nhân khi ra đến thị trường phải trải qua rất nhiều khâu liên quan đến nghiên cứu thị trường, sản xuất, phân phối, tái sản xuất, quản lý… Trong quá trình đó, công nghiệp văn hóa gắn liền với việc áp dụng khoa học công nghệ và sản xuất công nghiệp để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, tiếp cận người tiêu dùng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Ngành công nghiệp văn hóa hiện đang chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa và kinh tế của thế giới. Trước hết, công nghiệp văn hóa được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Nó tác động trực tiếp và có thể định lượng được đối với nền kinh tế của một nước. Công nghiệp văn hóa góp phần tăng trưởng GDP và giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động. Một nghiên cứu thống nhất được thực hiện tại Liên minh châu Âu đã đưa ra kết quả: ngành công nghiệp sáng tạo châu Âu cung cấp 2,6% GDP của EU và cung cấp cấp 5,6 triệu việc làm, tương đương với 3,1% tổng số việc làm của Liên minh châu Âu, cao hơn so với tổng số việc làm mà ngành hóa chất và nhựa công nghiệp (2,3%), công nghiệp thực phẩm (1,9%) mang lại. Công nghiệp sáng tạo tại châu Âu đã tăng trưởng 8,8% mỗi năm kể từ năm 1996 đến 2005, nhanh hơn so với tỷ lệ tăng trưởng của tổng thể nền kinh tế châu Âu. Theo số liệu từ UNCTAD (2008), thành công của EU trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và dịch vụ sáng tạo toàn cầu tăng từ 234,8 tỷ USD năm 2000 lên 445,2 tỷ USD năm 2005, một con số tăng trưởng chưa từng thấy.

3. Thực trạng và yêu cầu trong đào tạo và phát triển nhân lực về công nghiệp văn hóa và sáng tạo
(1) Thực trạng và những thách thức về yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng: Trong bối cảnh tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dù Nhà nước đã xác định ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo đóng vai trò chen chốt trong việc phát triển kinh tế xã hội bền vững, nhưng hiện nay, nhân lực còn mỏng và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nghiên cứu một số vấn đề mới, phức hợp, đòi hỏi hàm lượng khoa học và công nghệ cao. Ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá với yêu cầu phát triển đất nước…
Còn thiếu cán bộ đầu đàn ở một số lĩnh vực khoa học, đặc biệt là thiếu cán bộ trẻ kế cận có trình độ cao. Chất lượng nghiên cứu, hiệu quả thực tế của các đề tài nghiên cứu còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm lực, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học; lĩnh vực hoạt động còn hẹp. Việc chuẩn bị nhân lực khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp chưa đầy đủ; năng lực làm chủ, vận hành, chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu…
Chất lượng nghiên cứu, hiệu quả thực tế của các đề tài nghiên cứu còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm lực, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học; lĩnh vực hoạt động còn hẹp. Việc chuẩn bị nhân lực khoa học công nghệ trong các lĩnh vực then chốt của ngành chưa chủ động; năng lực làm chủ, vận hành, chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu… Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được Đại hội XIII xác định là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”.
(2) Yêu cầu mới về năng lực nhân sự đòi hỏi phải thay đổi chương trình đào tạo, tạo ra những con người có năng lực tư duy và sáng tạo - đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu, có “kỹ năng công nghệ”, kỹ năng làm việc nhóm (với cả những người không quen biết trên thế giới có cùng chung chí hướng), phong cách làm việc chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy thương thảo, khả năng truyền thông, ngoại ngữ, khả năng giải quyết mâu thuẫn, thậm chí xung đột từ xa…, am hiểu luật pháp nhiều quốc gia, có khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải.
Quá trình đào tạo cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học (tổ chức nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp); chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực. Việc học cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), xu thế của kỷ nguyên đổi mới sáng tạo, kỷ nguyên công nghệ số, trí tuệ nhân tạo hết sức đề cao vai trò của các kỹ năng mềm. Thế giới đang hình thành một cuộc cách mạng về tư duy đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất, kỹ năng cần có cho người lao động trong thế kỷ 21. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2016 đã đưa ra 16 kỹ năng cần được đào tạo cho nguồn nhân lực trong thế kỷ 21, trong đó có: 6 kỹ năng nền tảng: Kiến thức về ngôn ngữ, số và toán, kiến thức khoa học, kiến thức công nghệ thông tin, truyền thông, kiến thức tài chính, văn hoá, dân sự; 4 kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp như tư duy phản biện, sáng tạo, giao tiếp, hợp tác, liên kết; 6 tính cách: như tìm kiếm phá hiện, sáng kiến, kiên trì, thích ứng hoàn cảnh, năng lực lãnh đạo, khả năng nhận thức năng lực xã hội và văn hoá.[4]

4. Yêu cầu và giải pháp pháp đột phá trong đạo tạo và phát triển nhân lực có chất lượng về công nghiệp văn hóa và sáng tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
(1) Về mục tiêu, chủ trương: Yêu cầu phát triển, bồi dưỡng cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh đất nước hội nhập khu vực, quốc tế ngày càng sâu rộng. Tích cực phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt, gắn đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với quá trình phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, gắn đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với nhu cầu phát triển của những mô hình, phương thức phát triển kinh tế mới, những ngành, lĩnh vực kinh tế mới tạo đột phá phát triển cho Việt Nam.
Về chủ trương trong xây dựng cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài: Nghị quyết số 26-NQ/TW (Nghị quyết số 26) nhận định đánh giá những hạn chế trong thu hút và trọng dụng nhân tài: “Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hoá bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu”; nguyên nhân là “chưa có tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ”.
Nghị quyết số 26 cũng giao nhiệm vụ xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài. Trong đó, Ban chấp hành Trung ương đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ; thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
Để triển khai thực hiện, một trong hai trọng tâm mà Nghị quyết số 26 đề ra là: “Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nêu rõ quan điểm: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững” Nghị quyết 26-NQ/TW xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025 và đến năm 2030:
Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
Bối cảnh mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ đáp ứng một số tiêu chí sau: (i) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, thấm nhuần lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, (ii) Khả năng nghiên cứu, phân tích, dự báo chiến lược; (iii) Khả năng sử dụng ít nhất một ngoại ngữ; (iv) Khả năng sử dụng tốt tiếng dân tộc thiểu số tại địa bàn công tác; (v) Hiểu biết về văn hóa; (vi) Tư duy linh hoạt; (vii) Làm chủ công nghệ; (viii) Kỹ năng giao tiếp và ứng xử hiệu quả.
(2) Về những giải pháp tổ chức thực hiện:
Một là, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, giữ chân và trọng dụng nhân tài. Có cơ chế đặc thù khuyến khích và thu hút các nhà giáo, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, đặc biệt với những ngành liên quan trực tiếp với chiến lược ưu tiên phát triển của Việt Nam đối với các lĩnh vực công nghiệp văn hóa và sáng tạo… Thực hiện đồng bộ chủ trương phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế”. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các cấp học, trình độ học và giữa các phương thức, chuẩn hóa và hiện đại hóa; học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội…
Hai là, Nhanh chóng áp dụng từ việc quản lý, cho tới giảng dạy và học tập theo tiêu chuẩn mới (giáo dục 4.0), mô hình nhà trường thông minh với sự hỗ trợ của công nghệ, các hệ thống quản lý học tập trên Internet như Blackboard hoặc Moodle, các thiết bị đa phương tiện, các phần mềm mô phỏng, sử dụng phương pháp học tập hỗn hợp và lớp học đảo ngược. Quá trình dạy cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học (tổ chức nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp); chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực. Việc học cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập.
Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, quản lý giáo dục (4.0): cần xây dựng những công cụ thông minh, gồm cả công cụ quản lý thông minh, phần mềm trí tuệ nhân tạo, bản địa hóa kho tài liệu học và đẩy mạnh liên kết quốc tế.
Kết hợp với việc ứng dụng các mô hình giáo dục: Phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo, phòng thí nghiệm, thư viện ảo… dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh; các đề tài này phải gắn liền với giải quyết một vấn đề cụ thể trong chuyên môn, hoặc hoặc trong đời sống kinh tế, xã hội... Gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; đồng thời, đẩy mạnh hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp là cần thiết để chia sẻ các nguồn lực chung. Thay đổi từ chỗ “dạy những gì giới học thuật sẵn có” sang “dạy những gì thị trường cần, doanh nghiệp cần”, hoặc thậm chí xa hơn là “dạy những gì thị trường và doanh nghiệp sẽ cần”.
Thượng tướng, PGS. TS. Nguyễn Văn Thành
Phó Chủ tịch HĐLL Trung ương
[1]. UNESCO: “Các ngành công nghiệp văn hóa - Tâm điểm của văn hóa trong tương lai”, http://portal. unesco.org/culture/en/ev.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.11.
[3] Dự án Không gian Văn hóa Sáng tạo Việt Nam (Một dự án do Liên minh châu Âu và Hội đồng Anh đồng tài trợ, và do Hội đồng Anh phối hợp triển khai với Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam), xem https://www.britishcouncil.vn/sites/default/files/tai-lieu-hoi-thao-khong-gian-van-hoa-sang-tao-2018.pdf.