Chủ Nhật, ngày 19 tháng 05 năm 2024

Công nghiệp nền tảng và an ninh quốc gia

Ngày phát hành: 10/09/2023 Lượt xem 1354

Tập trung phát triển công nghiệp quốc phòng trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia 

 

Các quốc gia đều ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng để thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển và đảm bảo các vấn đề quốc phòng, an ninh; việc xây dựng và phát triển chúng thường phải đối mặt với rất nhiều thách thức[1]. Trên cơ sở các lập luận về quốc phòng, tác giả đề xuất các chính sách xây dựng các ngành công nghiệp nền tảng phục vụ quốc phòng và đặt chúng trong tâm thế phục vụ các ngành công nghiệp quan trọng của đất nước, tạo cơ sở thúc đẩy việc xây dựng nền sản xuất mạnh mẽ, chịu đựng được các tác động bất lợi bên ngoài. Nhà nước đầu tư cho các ngành công nghiệp nền tảng để tạo nền cho các ngành công nghiệp khác, giống như đầu tư hạ tầng giao thông để thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác phát triển; các khoản đầu tư mạnh mẽ và các hệ sinh thái liên quan là cơ hội cho các ngành kinh tế khác.

 

1. Tầm quan trọng của công nghiệp nền tảng đối với An ninh quốc gia

 

An ninh quốc gia (ANQG) là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau; dưới góc nhìn truyền thống nó bao gồm hai khía cạnh chính là an ninh chính trị và an ninh quân sự; những năm gần đây các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng đặt ra nhiều thách thức đối với ANQG. Hiện nay, kinh tế một khía cạnh quan trọng của ANQG vì “kinh tế, xét đến cùng, quyết định chính trị[2]”. Chiến lược ANQG Mỹ (1991) đưa kinh tế bên cạnh chính trị và quân sự là 3 trụ cột chính.

 

Nền công nghiệp vững mạnh là một trong những yếu tố quyết định đảm bảo cho nền kinh tế đối mặt với các thách thức từ bên ngoài. Peter Kent Navarro[3] coi an ninh kinh tế là ANQG và khẳng định “chỉ thông qua sự thịnh vượng lâu dài của nền kinh tế, Mỹ mới tìm thấy nguồn lực, sự tăng trưởng và đổi mới công nghệ cần thiết để triển khai quân đội tiên tiến nhất trên thế giới”; các nhà kinh tế quân sự Mỹ cũng đồng quan điểm trên khi coi sự thịnh vượng của các ngành sản xuất công nghiệp mới đảm bảo duy trì sức mạnh quân sự trên thế giới. Nhiều quốc gia coi sản xuất công nghiệp là điều kiện quan trọng đảm bảo an ninh kinh tế.

 

Sự tác động của nền sản xuất công nghiệp có thể trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề quốc phòng, an ninh. Trong 5 yếu tố chính của ANQG được nhìn nhận dưới khía cạnh an ninh quân sự[4] thì “Sản xuất trong nước và dự trữ quốc phòng (dự trữ nóng và dự trữ lạnh), bao gồm năng lực sản xuất quốc phòng và sự sẵn có của các yếu tố đầu vào để duy trì các nỗ lực bảo vệ Tổ quốc (sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị, quân tư trang…)” có tác động trực tiếp đến các vấn đề quân sự, quốc phòng.  Bốn yếu tố còn lại có tác động một cách gián tiếp nhưng không kém phần quan trọng, gồm: Hệ thống thông tin liên lạc (viễn thông, internet, vệ tinh,…)  phục vụ công tác chỉ huy tham mưu, phối hợp quân sự; cơ sở hạ tầng trọng yếu (bao gồm hạ tầng giao thông, điện, nước…) để người dân có thể tiếp tục các hoạt động kinh tế, bao gồm cả nguồn cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho quân đội; an ninh mạng và an ninh hệ thống tài chính - đảm bảo cho khả năng hoạt động liên tục và phục hồi của nền kinh tế quốc dân; những công nghệ mới đóng vai trò quan trọng đối với tiềm lực quốc phòng, an ninh. Bất kỳ sự gián đoạn nào đối với một trong các lĩnh vực này đều có thể gây ra hậu quả sâu rộng đối với một quốc gia về kinh tế và quân sự; việc đảm bảo an ninh cho các ngành sản xuất then chốt và cơ sở hạ tầng trọng yếu là cần thiết bởi chúng luôn phải đối mặt với nhiều mối đe dọa khác nhau, bao gồm thiên tai, tấn công mạng, tấn công vật lý và sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường thương mại.

 

Trong nền công nghiệp thì các ngành công nghiệp nền tảng (CNNT) được coi như hạ tầng kỹ thuật và chúng có vị trí, vai trò như là phần gốc của nền công nghiệp. Chúng được thừa nhận không chỉ ở khả năng nội tại mà còn ở vai trò tiềm tàng trong việc thúc đẩy và hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác; nhiều ngành CNNT dù không phải là ngành có tỉ trọng cao nhưng vẫn là trụ cột của nền kinh tế[5]. Các nước công nghiệp phát triển đều trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển các ngành CNNT (xây từ gốc) để làm cơ sở cho việc phát triển các ngành công nghiệp khác trong các giai đoạn khác nhau của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH). Trọng tâm của ngành này được đặt trong tâm thế phục vụ các ngành mũi nhọn khác của đất nước và công nghiệp quốc phòng. Các quốc gia có thể trở nên cạnh tranh hơn nếu phát triển nền tảng sản xuất, tăng năng lực công nghệ và đầu tư vào kết cấu hạ tầng.

 

Về bản chất, các ngành CNNT đã được biết đến từ lâu; ở một số quốc gia còn gọi là các ngành công nghiệp cơ bản, cơ sở. Từ thập niên 80, 90 của thế kỷ 20, Đài Loan đã xây dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cơ bản sau khi hoàn thành cơ bản hạ tầng giao thông. Hàn Quốc cũng là đất nước tiến hành công nghiệp hóa từ việc ưu tiên phát triển các hạ tầng công nghệ một cách triệt để và có chiều sâu để chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn.

 

2. Các ngành công nghiệp nền tảng quan trọng đối với nền sản xuất quốc phòng

 

Đối với Việt Nam, ba ngành CNNT, gồm: vật liệu (kim loại là chủ yếu), công nghiệp điện tử, công nghiệp hóa chất và có vai trò rất quan trọng. Sự suy yếu hoặc kém hiệu quả của chúng sẽ đặt thách thức to lớn đối với phòng thủ của đất nước; đặt nền sản xuất quốc phòng của đất nước vào trạng thái bị động khi có tính huống xảy ra.

 

 (1) Công nghiệp chế tạo vật liệu: Các vật liệu cơ bản như kim loại, vật liệu composite, vật liệu chịu nhiệt,… là những vật liệu quan trọng được sử dụng trong quân sự; các vật liệu này đảm bảo duy trì sự sẵn sàng của sản xuất quốc phòng nhờ tính năng chịu lực, độ bền cao, chịu nhiệt và chịu ăn mòn; là nền tảng cho các công nghệ quân sự. Để đảm bảo nguồn cung cấp vật liệu cho quân đội, phần lớn các nước đều ưu tiên cho các chương trình nghiên cứu và phát triển vật liệu để tăng cường năng lực quốc phòng và thúc đẩy nền khoa học kỹ thuật trong nước phát triển. Các chương trình này bao gồm việc phát triển và sản xuất các loại vật liệu mới, cải tiến vật liệu hiện có và nghiên cứu các ứng dụng mới; sự tự chủ về vật liệu là cần thiết để đảm bảo bí mật cho các chương trình phát triển vũ khí. Ngành kim loại Việt Nam chưa thể đáp ứng các nhu cầu của quân đội bởi các đòi hỏi đặc biệt về kỹ thuật; phần lớn quân đội đều phải phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài không đáng tin cậy, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

 

 (2) Công nghiệp điện tử, đặc biệt là các linh kiện bán dẫn: Các sản phẩm của ngành này được sử dụng trong nhiều ứng dụng quân sự, từ máy tính, hệ thống điều khiển, định vị, các thiết bị đo lường, viễn thông, radar… Nếu làm chủ được công nghệ điện tử có thể phát triển các loại vũ khí thông minh mà không bị kiểm soát hoặc chế áp điện tử của đối phương. Các sản phẩm này cần được thiết kế và sản xuất với các tiêu chuẩn và quy trình nghiêm ngặt để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của các hệ thống quân sự. Các nhà khoa học của Viettel đang nỗ lực nghiên cứu và phát triển các hệ thống linh kiện điện tử để cải thiện tính năng của các hệ thống quân sự; cần có một chính sách hoặc cơ chế đặc thù để tạo ra một bước nhảy đối với doanh nghiệp này.

 

(3) Công nghiệp hóa chất: Ngành công nghiệp hóa chất cung cấp các nguyên liệu quan trọng để sản xuất các chất nổ, tiền chất nổ quân sự được sử dụng để tạo ra năng lượng trong các tên lửa, đạn dược và bom,… cho đến sản xuất các nhiên liệu rắn, lỏng cho phát triển các động cơ phóng, đẩy; các hợp chất (sơn) để bảo vệ các thiết bị quân sự, như máy bay, tàu chiến, xe tăng, thiết giáp và các trang bị kỹ thuật quân sự khác. Ngoài ra ngành công nghiệp hóa chất có thể cung cấp nguyên liệu để phát triển các vật liệu phi kim loại để sản xuất các bộ phận cơ bản của nhiều hệ thống quân sự như máy bay, tàu chiến, xe tăng thiết giáp, tên lửa chiến thuật,…với nhu cầu ngày càng tăng của quân đội ta.

 

Ba ngành này không chỉ quan trọng đối với sản xuất quốc phòng mà còn có vai trò rất quan trọng với nền kinh tế quốc dân; thúc đẩy nhiều ngành sản xuất trong nước phát triển, cứ mỗi một công việc làm trong các ngành này sẽ tạo ra nhiều việc làm cho các ngành khác phát triển. Theo Viện nghiên cứu về Sắt và Thép có trụ sở tại Thủ đô Washington, cứ một công việc trong ngành thép, sẽ tạo ra thêm bảy công việc trong các ngành kinh tế khác[6] và họ coi Thép là ngành công nghiệp “chiến lược”. Xây dựng các ngành CNNT có thể được ví như xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông - mạch máu của đất nước đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Việc xây dựng các ngành CNNT tạo ra “gốc” vững chắc cho việc phát triển các ngành sản xuất khác, đặc biệt là các ngành công nghệ cao quan trọng đối với An ninh quốc gia.

 

Các ngành công nghệ cao là các công nghệ mới được nghiên cứu và phát triển trên các nền tảng công nghệ cơ bản. Trong thế kỷ 21, nhiều ngành công nghiệp quan trọng được phát triển trên cơ sở công nghệ mới. Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ (2017) nêu rõ rằng “Mỹ sẽ ưu tiên các công nghệ mới nổi đóng vai trò quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và an ninh, chẳng hạn như khoa học dữ liệu, mã hóa, công nghệ tự vận hành, chỉnh sửa gen, vật liệu mới, công nghệ nano, công nghệ tính toán tiên tiến, và trí tuệ nhân tạo. Từ ô tô tự lái đến vũ khí tự hành, lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, đặc biệt, đang tiến bộ nhanh chóng”. Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2015 thừa nhận sự cần thiết phải đi theo các xu hướng toàn cầu trong việc chế tạo vũ khí thông minh, tự hành, tàng hình và vũ khí hành trình chính xác, đảm bảo nhu cầu cạnh tranh trong không gian, trên không gian mạng và tin học.[7]

 

Đối với Việt Nam, ngành công nghệ cao sẽ đóng một vai trò quan trọng để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội. Các sản phẩm và công nghệ đang được các cơ sở nghiên cứu trong quân đội phát triển, tuy nhiên, do thiếu các công nghệ nền tảng nên chủ yếu mới ở dạng tích lũy về lượng, chưa có nhiều sự chuyển hóa về chất. Để phát triển được các ngành công nghệ cao của đất nước, việc cần thiết chúng ta phải xây dựng các hạ tầng công nghệ, nơi có các ngành CNNT để phát triển các ngành công nghệ cao một cách thuận lợi và có chiều sâu. Do vậy, mối quan hệ giữa các ngành CNNT và ngành công nghệ cao là mối quan hệ cộng hưởng, đảm bảo cho việc thúc đẩy chúng cùng phát triển.

 

3. Chính sách phát triển công nghiệp nền tảng của đất nước

 

Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển các ngành CNNT, các ngành công nghiệp “chiến lược” từ rất sớm. Thông báo số 112/TB-TW ngày 12/4/1995 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh “Thép là vật liệu chủ yếu đối với nhiều ngành công nghiệp, có vai trò quyết định đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước”. Mới đây nhất, Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 29-NQ/TW) đã xác định mục tiêu đến năm 2030 phải phát triển các ngành CNNT và một trong các nhiệm vụ đặt ra là “Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường”, với ưu tiên nguồn lực và có cơ chế, chính sách khuyến khích đủ mạnh để phát triển các ngành CNNT như luyện kim, hóa chất, vật liệu, sản xuất chíp bán dẫn,...

 

Nghị quyết 29-NQ/TW cũng chỉ ra những bất cập trong cách thực thi các chính sách CNH, HĐH đất nước đối với các ngành CNNT. Điều đó cho thấy, để làm nào mới khó, đặc biệt các ngành CNNT phải cần thời gian và phải được nhìn rộng hơn ở khả năng tiềm tàng mới thấy được hiệu quả. Không phải tất cả các quốc gia cố gắng phát triển các ngành công nghiệp quan trọng đều thành công trong việc đưa nó trở nên bền vững, và nhấn mạnh vào điều hiển nhiên là việc tổ chức “như thế nào” quan trọng hơn là “làm cái gì”. Các quốc gia như Đức, Nhật, coi một số CNNT là trụ cột của nền kinh tế và đặt nó trong tâm thế phục vụ các ngành công nghiệp then chốt của đất nước, kể cả các ngành công nghệ cao, công nghệ mới.

 

Xây dựng và phát các ngành CNNT không chỉ cần nguồn lực đầu tư lớn mà cần phải tổ chức như thế nào để chúng có thể phát triển đủ sức cạnh tranh trên thị trường tự do. Các nước láng giềng với các ngành CNNT phát triển sẽ tạo ra sức cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy, nếu chỉ đầu tư xây dựng mà thiếu đi sự “nuôi dưỡng” thì chúng cũng khó mà phát triển đến ổn định và “trưởng thành”. Một Ủy ban chuyên trách điều hành và hoạch định các chính sách vĩ mô để phát triển các ngành công nghiệp phục vụ quá trình CNH; vừa đảm bảo các vấn đề quốc phòng, vừa thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế trụ cột, có thể là một giải pháp cần thiết.

 

4. Cơ sở lập luận về quốc phòng để phát triển công nghiệp nền tảng

 

Câu hỏi đặt ra là cách tiếp cận lấy quốc phòng làm trung tâm trong xây dựng các chính sách phát triển một số ngành CNNT trong giai đoạn đầu có đủ sức thuyết phục không. Chúng ta xem xét các cơ sở lý luận khoa học dưới đây:

 

Thứ nhất, kinh tế và quốc phòng là hai vấn đề quan trọng của quốc gia và nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. C. Mác, khi bàn về vai trò của quốc phòng đối với kinh tế, đã chỉ rõ: “Nói chung, quân đội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế”[8]. Phát triển quan điểm này của C. Mác, Lê-nin cho rằng, phát triển kinh tế sẽ làm cơ sở cho tăng cường quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Lê-nin đã đặt quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm trong giai đoạn đầu của chính quyền Xô viết, song không coi nhẹ nhiệm vụ kinh tế, mà đặt kinh tế và quốc phòng trong mối quan hệ biện chứng và phát triển lý luận về vai trò của kinh tế đối với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở những nước kinh tế chậm phát triển và khẳng định“… không chuẩn bị hết sức đầy đủ về kinh tế, thì việc tiến hành một cuộc chiến tranh hiện đại chống chủ nghĩa đế quốc tiên tiến là điều không thể làm được đối với một nước nông nghiệp…”.

 

Theo Lê-nin, để xây dựng một nền kinh tế cộng sản, quan trọng là phải bảo vệ và phát triển các ngành công nghiệp then chốt như sản xuất thép, sản xuất máy móc, năng lượng điện,... Bởi các ngành này là cốt lõi của nền kinh tế và đảm bảo sự độc lập kinh tế của một quốc gia. Trong các tác phẩm "Chính sách kinh tế mới - NEP”, Lê-nin đã chỉ ra rằng, trong bối cảnh cạnh tranh thị trường, các nước có kinh nghiệm phát triển kinh tế như Anh, Pháp, Đức đã áp dụng chính sách bảo vệ ngành công nghiệp của mình trước đó để phát triển và bảo vệ ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, Lê-nin cũng lưu ý rằng các biện pháp bảo vệ này chỉ là tạm thời và cần được sử dụng để giúp các ngành công nghiệp trở nên đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Cuối cùng, mục tiêu của chính sách bảo vệ ngành công nghiệp là đảm bảo sự phát triển kinh tế và độc lập kinh tế của một quốc gia, trong khi đồng thời thúc đẩy cách mạng xã hội.

 

Đảng ta, quán triệt tư tưởng của Lê-nin về quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, và xác định: “Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội và trên từng địa bàn”. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

Thứ hai, các nhà kinh tế tư bản, nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ các ngành công nghiệp quan trọng trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Nhà kinh tế học Adam Smith, người được xem là cha đẻ của Chủ nghĩa Tư bản coi quốc phòng là một ngoại lệ trong nguyên tắc chung của thương mại tự do đối với các mối quan hệ kinh tế quốc tế; Friedrich List (nhà kinh tế học người Mỹ gốc Đức) đã phát triển thêm luận điểm này; ông nổi tiếng với việc đưa ra lập luận bảo hộ “ngành công nghiệp non trẻ” trong các bài viết của ông về “hệ thống quốc gia” của nền kinh tế chính trị. Friedrich List cho rằng, giá trong nước cao hơn trong ngắn hạn là “sự hy sinh hiện tại để đạt được lợi ích trong tương lai”, bởi vì “theo thời gian, khi quốc gia có thể xây dựng một nền sản xuất hoàn toàn phát triển của riêng mình, những hàng hóa đó sẽ được sản xuất trong nước với giá rẻ hơn giá mà chúng có thể được nhập khẩu từ nước ngoài”, và việc phát triển năng lực sản xuất do bảo hộ thương mại sẽ giúp đảm bảo sự độc lập, tự chủ công nghiệp trong trường hợp có chiến tranh, xung đột. Tuy nhiên, Friedrich List nhấn mạnh rằng chỉ những lĩnh vực quan trọng nhất của ngành sản xuất công nghiệp mới nên được bảo hộ.

 

Thứ ba, thuyết “ngành công nghiệp non trẻ” cho rằng các ngành công nghiệp mới nổi trong nước cần được bảo vệ chống lại cạnh tranh quốc tế cho đến khi chúng ổn định và trưởng thành. Tuy nhiên, định nghĩa về “ngành công nghiệp non trẻ” ở bất kỳ quốc gia đang phát triển nào cũng sẽ thay đổi theo thời gian, không chỉ liên quan đến các ngành tương tự “đã trưởng thành” của chúng ở các nước tiên tiến, mà còn là kết quả của sự xuất hiện liên tục các ngành công nghiệp mới. Trong thế kỷ 21, các “ngành công nghiệp non trẻ” ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Nga thường dùng để chỉ các ngành “công nghệ cao” hoặc “công nghệ mới” được xây dựng dựa trên thành quả của những nỗ lực Nghiên cứu & Phát triển (R&D) chuyên sâu. Ở Việt Nam các công nghệ mới và nhiều ngành CNNT là các “ngành công nghiệp non trẻ”.

Ngày nay, việc bảo vệ các “ngành công nghiệp non trẻ” dựa trên lập luận về quốc phòng đã nhiều khác biệt so với trước kia, tuy nhiên việc sử dụng quốc phòng để nghiên cứu những công nghệ tiên tiến nhất vẫn được sử dụng phổ biến ở nhiều nước để khẳng định rằng trong điều kiện hiện nay của thế giới, một ngành sản xuất mới nếu không không được bảo vệ, sẽ không thể lớn lên dưới sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường tự do. Ví dụ, để bảo vệ ngành công nghiệp thép - quan trọng đối với an ninh kinh tế, Trung Quốc đã thực hiện các chính sách với sự hỗ trợ của mạnh mẽ từ chính phủ để đưa ngành thép lên vị trí hàng đầu của thế giới, và góp phần to lớn thúc đẩy ngành công nghiệp quốc phòng phát triển.

 

Thứ tư, thông qua quốc phòng, Nhà nước bảo vệ các ngành công nghiệp quan trọng. Các cơ sở để Nhà nước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế công nghiệp vì lý do quốc phòng có thể được phân thành hai loại. Loại thứ nhất dựa trên nhận thức rằng sự tồn tại và tiếp tục hoạt động (ở các mức độ với sản lượng cụ thể) của một số ngành công nghiệp nhất định hoặc các ngành công nghiệp then chốt, được coi là quan trọng và phù hợp từ góc độ bảo vệ lợi ích quốc gia. Nếu không có sự can thiệp, các ngành công nghiệp này có thể không tồn tại hoặc hoạt động ở mức độ không phù hợp, không phát triển được. Loại thứ hai nảy sinh ở một cấp độ từ phần mở rộng mệnh lệnh của Clausewitz[9] “chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị ở một phương diện khác”, với việc sử dụng chiến lược ngoại thương thay thế cho các công cụ bạo lực vũ trang để đạt được các mục tiêu chính trị trong quan hệ quốc tế; tương tự như việc chúng ta có nền sản xuất đủ mạnh thì việc đối mặt với nguy cơ chiến tranh ít đi. Điều XXI, khoản (b) của Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại, hiện đã được hợp nhất vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cũng cho phép điều này, bằng quy định rằng các thành viên sẽ có quyền thực hiện “bất kỳ hành động nào mà họ cho là cần thiết để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu của mình liên quan tới mua bán vũ khí, đạn dược và vật dụng chiến tranh; và mọi hoạt động thương mại đối với các hàng hoá và vật dụng khác trực tiếp hay gián tiếp để cung ứng cho quân đội”.

 

Nhìn chung, về cơ bản, phát triển các ngành công nghiệp thường đối mặt với nhiều thách thức và nhiều nước công nghiệp thường viện dẫn lập luận ANQG và quốc phòng để xây dựng và bảo vệ một ngành công nghiệp quan trọng. Điều này được thực hiện với ngụ ý rằng, bất kỳ một ngành công nghiệp mới đều cần thời gian để “trưởng thành” thì mới có thể đóng góp cho lợi ích quốc gia. Và nó cũng lý giải cho việc các công nghệ mới, công nghệ quan trọng thường được khởi xướng từ quốc phòng; quốc phòng sẽ “nuôi dưỡng” một ngành công nghiệp ở giai đoạn đầu để nó “trưởng thành” và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thương mại. Các nhà kinh tế học Mác-xit đã bảo đảm việc đó bằng mối quan hệ không thể tách rời giữa kinh tế với quốc phòng, trong khi một số nhà kinh tế học tư bản lại coi nó như các lập luận về quốc phòng để bảo vệ các ngành công nghiệp.

 

5. Phát triển công nghiệp nền tảng và các chính sách ngắn hạn

 

Không có một lĩnh vực quan trọng nào, không phải đánh đổi để đạt được mục đích; việc đánh đổi giữa lợi nhuận từ thương mại và ANQG là một trong những mô hình chính thức và phổ biến trên thế giới. Nghị quyết 29-NQ/TW đặt ra mục tiêu với việc xây dựng các chính sách đủ mạnh để phát triển các ngành ngành CNNT; rõ ràng chúng ta cần một chính sách mạnh mẽ, hiệu quả và tham vọng để đưa một vài ngành công nghiệp lên vị trí hàng đầu trong khu vực và trở thành một trong những trụ cột của nền kinh tế quốc dân.

 

Thứ nhất, đối với việc phát triển các ngành CNNT phục vụ quốc phòng, an ninh. Điều này được đảm bảo bởi: (1) Nhu cầu của quốc phòng là thực sự cấp bách; (2) Quốc phòng sẽ đặt hàng và đảm bảo duy trì năng lực sản xuất để ổn định công nghệ; (3) Các chuỗi liên kết được Chính phủ kiến tạo có thể thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực sản xuất liên quan; (4) Hiệu quả đầu tư được đảm bảo bằng hiệu quả QP, AN thay cho hiệu quả kinh tế thuần túy, điều này đảm bảo cho việc tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu và duy trì sản xuất ở mức độ phù hợp, và theo thời gian hiệu quả kinh tế sẽ được đánh đổi bằng việc sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế khác; (5) Việc sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao trong quốc phòng sẽ thức đẩy các ngành công nghệ khác, đặc biệt là công nghệ cao của đất nước.

 

Tuy nhiên việc phát triển các ngành CNNT bắt đầu từ quốc phòng chỉ nên lựa chọn các ngành phù hợp, đúng chủ trương của Đảng về xây dựng nền công nghiệp quốc phòng[10]. Nhà nước phân phối nguồn lực đầu tư và không chỉ bó gọn trong quốc phòng mà phải gắn với việc phát triển các ngành sản xuất khác của quốc gia. Việc kết hợp giữa các nhà kinh tế quân sự với tư duy chiến lược và các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô có tầm nhìn dài hạn, kiên trì sẽ phát triển các ngành kinh tế mang tầm quốc gia từ quốc phòng. ANQG là cơ sở đảm bảo cho các khoản đầu tư mạnh mẽ từ Chính phủ để đưa chúng lên một tầm cao mới.

 

Thứ hai, xây dựng nền tảng sản xuất quốc gia; phát triển một vài ngành CNNT trở thành trụ cột của nền kinh tế. Xét về lĩnh vực công nghiệp, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình CNH[11] vì vậy các ngành CNNT sẽ cung cấp các sản phẩm cơ bản cho các ngành công nghiệp khác và là một lĩnh vực quan trọng trong giai đoạn giữa của sự phát triển. Có thể đặt mục tiêu đưa ngành một vài ngành CNNT trở thành trụ cột của nền kinh tế với vị trí phục vụ các ngành sản xuất khác trong cơ cấu thành phần kinh tế. Ví dụ: đối với thép đặt trong tâm thế phục vụ công nghiệp chế tạo máy, ô tô, công nghiệp tàu thủy, thiết bị dân dụng và sản xuất quốc phòng…; đối với chíp điện tử, linh kiện bán dẫn đặt trong tâm thế phục vụ các ngành công nghiệp bậc cao hơn và các ngành công nghệ cao; đối với hóa chất phục vụ công nghiệp phân bón, hóa dầu, sơn, cao su, pin điện hóa, khai thác tài nguyên... Quốc phòng chỉ đóng vai trò là trung tâm để sản xuất các sản phẩm kỹ nghệ công nghệ cao và nghiên cứu phát triển các sản phẩm quân sự. Sự dẫn dắt và phát triển trở thành ngành kinh tế trụ cột do hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước thực hiện dưới sự định hướng của Nhà nước.

 

Xây dựng ngành CNNT và thúc đẩy chúng trở thành các ngành kinh tế “chiến lược”, và đặt chúng ở tâm thế phục vụ các lĩnh vực, ngành công nghiệp khác của đất nước sẽ góp phần việc xây dựng hạ tầng công nghệ, thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế thâm dụng lao động sang nền kinh tế thâm dụng công nghệ, qua đó nâng cấp nền kinh tế và tăng tính kỹ nghệ của đất nước. Chính phủ định hướng phát triển các ngành CNNT và định hình các ngành công nghiệp thế hệ tiếp theo bằng cách khuyến khích đổi mới công nghệ trong các ngành bậc cao hơn trên cơ sở hạ tầng công nghệ.

 

Thứ ba. Thành lập Ủy ban chuyên trách phát triển các ngành công nghiệp phục vụ QP, AN và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị Quyết 29-NQ/TW đều xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như vậy, chúng ta đã có đầy đủ các đường hướng chỉ đạo đúng đắn của Trung ương, tuy nhiên việc hành động như thế nào mới khó, mới thành công được. Thời gian từ nay đến 2030 không còn nhiều, làm thế nào để đưa Nghị Quyết sớm vào thực tiễn. Theo thời gian, các mục tiêu CNH, HĐH thường bị lùi lại; phát triển công nghiệp không đồng nghĩa với quá trình CNH đất nước, tuy nhiên muốn đạt mục tiêu CNH đất nước, chúng ta phải phát triển các ngành công nghiệp, bởi chúng là động lực chính cho quá trình CNH đất nước.

 

 Ủy ban chuyên trách để điều hành, hoạch định và thúc đẩy chính sách phát triển các ngành công nghiệp (không làm tăng biên chế) có thể là một giải pháp tích cực. Ủy ban sẽ hành động để thực thi các chính sách một cách nhanh chóng, hiệu quả. Chính phủ thông qua Ủy ban kiến tạo chuỗi liên kết; phân phối nguồn lực phù hợp; tăng nguồn lực đầu tư cho các ngành CNNT và hạ tầng công nghệ của đất nước để thúc đẩy nền kỹ nghệ phát triển.

 

Thứ tư. Các doanh nghiệp được hưởng lợi từ các chính sách ưu tiên của Nhà nước về tài nguyên thiên nhiên, đất đai cần phải đầu tư vào các ngành CNNT để chia sẽ khó khăn cùng Chính phủ. Việt Nam có nhiều doanh nghiệp bất động sản nhờ hưởng lợi từ chính sách của Nhà nước đã phát triển lớn mạnh trong thời gian ngắn; Nhà nước có thể tạo các ưu đãi và yêu cầu các doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng công nghệ. Các nhà sản xuất thép xây dựng, được hưởng lợi từ, đất đai, hạ tầng giao thông, tài nguyên thiên nhiên…phải xây dựng các Nhà máy sản xuất hợp kim chất lượng cao phục vụ quá trình CNH và phục vụ các ngành công nghiệp quan trọng khác của đất nước, bởi họ sẽ không làm nếu họ không nhìn thấy lợi nhuận trước mắt. Tạo ra các nhà sản xuất vì quốc gia như đất nước Hàn Quốc (Huyndai, Deawoo, SamSung…), sẽ là động lực quan trọng để phát triển hạ tầng công nghệ, đưa đất nước tiến vào con đường phát triển kỹ nghệ, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phục vụ quá trình CNH, HĐN đất nước. Một nền sản xuất vững mạnh sẽ là điều kiện đảm bảo an ninh kinh tế, các vấn đề quốc phòng và là cơ hội để Việt Nam phát triển ổn định vượt qua các nước trong khu vực, tiệp cận với các nước phát triển.

 

Kết luận

          i) Các ngành CNNT, có vai trò rất quan trọng đối với tiềm lực quốc phòng, an ninh và an ninh kinh tế. Sự vững mạnh của các ngành sản xuất trong đó có các ngành CNNT đảm bảo cho độc lập, tự chủ của sản xuất quốc phòng; làm giảm đáng kể sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài thường không chắc chắn. Các ngành CNNT phải đặt trong tâm thế phục vụ các ngành công nghiệp quan trọng của đất nước để đảm bảo an ninh kinh tế, phát triển hạ tầng công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang thâm dụng công nghệ.

 

          ii) Phát triển các ngành công nghiệp phục vụ ANQG là một vấn đề khó, nếu thiếu các chính sách đủ mạnh và hoạch định chiến lược phù hợp sẽ rất khó thành công; thực tế là chúng ta đã rất loay hoay; các chính sách và nguồn lực để xây dựng phải đảm bảo đủ thời gian để phát triển và đủ sức cạnh trạnh. Viện dẫn các vấn đề quốc phòng, an ninh là quan trọng và cần thiết nhưng cũng là không đáng tin cậy nếu chúng ta không tổ chức và điều hành một cách phù hợp và kiên trì.

 

          iii) Nhà nước (có thể) nên thành lập Ủy ban chuyên trách điều hành và điều tiết các chính sách vĩ mô một cách liên tục và hiệu quả để phát triển các ngành công nghiệp trở thành các ngành kinh tế trụ cột, chiến lược của đất nước. Hoàn thành từng bước các mục tiêu CNH, HĐH đã nêu trong các Nghị Quyết của Trung ương./.

 

Tiến sĩ Lê Văn Long, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng



[1] “Cạnh tranh trong việc phát triển và triển khai các công nghệ nền tảng nhằm tạo ra những biến đổi về an ninh và kinh tế đang trở nên gay gắt” – Chiến lược ANQG Mỹ 2022.

[2] Nguyễn Xuân Thắng: Tư tưởng, lý luận với đổi mới và phát triển đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 10.

[3] Trợ lý Tổng thống Donal Trump, Giám đốc Chính sách Thương mại và Sản xuất, đồng thời là điều phối viên chính sách của Đạo luật Sản xuất quốc phòng.

[4] Cheng, L. K. H., Whitten, G. W., & Hua, J. (2019). Lập luận An ninh Quốc gia để Bảo vệ các Ngành công nghiệp trong nước (Loạt Báo cáo Nghiên cứu Số 1 của PSEI). http://commons.ln.edu.hk/pseiwp/1.

[5] Trần Văn Cung (CHLB Đức): Ngành sản xuất thép của Đức, với sản lượng khoảng 40 triệu tấn/năm, tổng doanh thu 37,8 tỉ Euro (2015); nhưng dù vậy, nó vẫn là ngành công nghiệp cơ bản có tầm quan trọng đặc biệt trong chuỗi sáng tạo làm tăng giá trị thông qua chế tạo và đồng thời là trụ cột của nền kinh tế quốc dân của Đức. Chi tiết xem tại https://nguoidothi.net.vn/duc-thep-da-toi-the-day-5648.html

[6] AMERICAN IRON AND STEEL INSTITUTE (2007), Ngành công nghiệp thép vững mạnh của Hoa Kỳ: Quan trọng để bảo vệ cơ sở hạ tầng, an ninh nội địa và an ninh kinh tế.

[7] Xem tài liệu tại http://www.chinadaily.com.cn/interface/toutiao/1138561/2015-5-26/cd_20821000.html.

[8] C. Mác và Ph. Ăng-ghen - Toàn tập, Tập 29, Nxb CTQG, H.1996, tr. 246.

[9] Karl Von Clausewitz là một danh tướng nước Phổ, tác giả của cuốn sách “Bàn về chiến tranh”, một tác phẩm về nghệ thuật chiến tranh có giá trị nhất trong lịch sử nhân loại.

[10] Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 26-1-2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về "Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo".

[11] K. Ohno đã chia tiến trình CNH được phát triển qua 4 nấc thang. Theo PGS TS Bùi Tất Thắng trong “Tiêu chí nước công nghiệp trong điều kiện hiện nay” thì Việt Nam đang ở vào giai đoạn 1 trong tiến trình về CNH.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết