Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964. Ảnh tư liệu
I. Tình hình và kết quả thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời gian qua
Người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) hiện nay có khoảng 5,3 triệu người, đang sinh sống, làm việc trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo số liệu ước tính, trong số đó có khoảng hơn 600.000 trí thức, với hơn 7.000 tiến sỹ và hàng trăm trí thức tên tuổi có uy tín quốc tế, tập trung chủ yếu ở các nước thuộc khối phương Tây. Đây là những người được đào tạo bài bản ở các nước tiên tiến, có kinh nghiệm thực tiễn, làm việc trong môi trường khoa học, công nghệ phát triển cao, làm chủ các phương pháp quản lý kinh tế chuyên nghiệp, và đặc biệt có quan hệ sâu rộng ở nước sở tại cũng như trên thế giới. Nhiều người giữ các vị trí quan trọng trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, bệnh viện, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế. Thêm vào đó, đội ngũ các nhà khoa học và chuyên gia gốc Việt thế hệ thứ 2, thứ 3 cũng đang trưởng thành, tập trung ở nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế mũi nhọn của thế giới như công nghệ điện tử - thông tin, công nghệ sinh học, khoa học vũ trụ, vật liệu mới, công nghệ nano, năng lượng, y học, các lĩnh vực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (machine learning), dữ liệu lớn (big data), các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán. Riêng tại Thung lũng Silicon, các kỹ sư công nghệ người Việt chiếm từ 2-3% nhân sự tại các công ty, tập đoàn đang hoạt động ở đây, trong đó 2% giữ các cương vị chủ chốt. Những số liệu này là minh chứng sinh động nhất cho thấy tiềm năng, tiềm lực to lớn của cộng đồng NVNONN nói chung và lực lượng chuyên gia, trí thức, nhà khoa học kiều bào nói riêng.
Trong thời kỳ đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc, công tác huy động nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện chủ yếu bằng biện pháp dân vận với sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo cấp cao, khơi dậy lòng yêu nước và mong muốn đóng góp cho đất nước trong cộng đồng. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Bác Hồ đã trực tiếp phát đi lời kêu gọi, tổ chức các cuộc vận động bà con kiều bào khắp nơi trên thế giới, trong đó có lực lượng trí thức NVNONN đóng góp tài lực, vật lực với mục tiêu là huy động mọi sự ủng hộ và đóng góp để giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong giai đoạn này, dưới sự vận động, cảm hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều trí thức NVNONN đã quay về dốc sức phục vụ cho cuộc kháng chiến của nước nhà, trong đó có thể kể đến nhiều tên tuổi nổi bật như kỹ sư Trần Đại Nghĩa, kỹ sư Võ Quý Huân, bác sỹ Trần Hữu Tước… Họ đã đóng góp nhiều phát kiến quan trọng về kỹ thuật quân sự cũng như quân y giúp tăng năng lực của bộ đội ta trong thời kỳ kháng chiến.
Sau thống nhất, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục có chủ trương huy động cao nhất sự tham gia của kiều bào vào công cuộc khôi phục sau chiến tranh, tăng cường đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, tham gia vận động dư luận quốc tế chống bao vây, cấm vận. Hiểu rõ những khó khăn, thiếu thốn trong nước, nhiều trí thức kiều bào đã phát động phong trào vận động quyên góp sách báo, tài liệu khoa học kỹ thuật, trang thiết bị đã qua sử dụng gửi về nước. Tại một số quốc gia đã hình thành Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam hoặc các nhóm đóng góp khoa học kỹ thuật, cử người về nước tìm hiểu nhu cầu, khả năng hợp tác, xây dựng các đề án, chương trình hợp tác với trong nước, huy động khả năng của các thành viên của Hội và của bạn bè sở tại.
Công tác NVNONN nói chung và công tác thu hút nguồn lực trí thức NVNONN nói riêng đã thực sự được quan tâm, thúc đẩy, trở thành nhận thức chung của tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị và của toàn dân kể từ khi NQ 36-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành ngày 26/3/2004. Đây có thể được coi là văn kiện có ý nghĩa lịch sử, có giá trị cơ bản, to lớn, toàn diện và lâu dài thể thể hiện sâu sắc tư duy đổi mới của Đảng ta về công tác này. Đây cũng là cơ sở để nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo môi trường “mở” cho các chuyên gia, trí thức NVNONN có thể đóng góp cho đất nước đã được liên tục ban hành thời gian qua.
Đáp lại mong muốn của Đảng và Nhà nước, cộng đồng chuyên gia, trí thức, nhà khoa học kiều bào luôn hướng về quê hương, chủ động bày tỏ nguyện vọng được đồng hành cùng Chính phủ và nhân dân trong nước đóng góp cho sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước. Trong năm 2017, lần đầu tiên đã có bốn (04) chuyên gia là NVNONN tham gia vào Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính Phủ nhiệm kỳ 2016-2021, trực tiếp tham gia vào quá trình tham mưu, tư vấn chính sách cho Chính phủ nhằm từng bước tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như năng lượng sạch, công nghệ xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững…
Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia là NVNONN đã chuyển về sinh sống, làm việc lâu dài ở trong nước và có nhiều đóng góp thiết cho sự phát triển của đất nước, cụ thể như Giáo sư Trần Thanh Vân (kiều bào Pháp), về nước thành lập Quỹ Học bổng Odon Vallet dành cho các sinh viên, học sinh trung học xuất sắc và các em ở các làng S.O.S Việt Nam trong cả nước, xây dựng Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (ICISE) tại Quy Nhơn, Bình Định để ươm mầm, nuôi dưỡng thế hệ tài năng trẻ của Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên; Giáo sư Đặng Lương Mô (kiều bào Nhật Bản) đã đề xuất thiết lập và làm cố vấn cho Trung tâm nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) và nhờ sự hỗ trợ của Giáo sư, trung tâm này đã nhận được sự tài trợ của công ty Synopsys (Nhật Bản), đây là tiền đề cho việc sản xuất con chip 8-bit đầu tiên của Việt Nam; TS. Trịnh Quang Toàn (kiều bào Hoa Kỳ), trưởng phòng nghiên cứu khí tượng thủy văn tại Đại học California, Davis về nước thực hiện dự án chuyển giao công nghệ tính toán mưa lũ lớn trong điều kiện hạn chế hoặc không có dữ liệu tại sông Đà và sông Thao…
Theo số liệu ước tính của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài – Bộ Ngoại giao, hằng năm trung bình có khoảng 300-500[1] lượt chuyên gia, trí thức, nhà khoa học NVNONN về nước tham gia các hoạt động khoa học và công nghệ, triển khai các dự án hợp tác trong giảng dạy, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển (R&D) trên nhiều lĩnh vực, qua đó nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Đặc biệt trong thời gian qua, bắt đầu xuất hiện nhiều nhóm trí thức người Việt Nam đa quốc gia, xuyên biên giới như Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam hay Mạng lưới người Việt có tầm ảnh hưởng. Sự kết nối người Việt trên toàn cầu đang tạo ra các cơ chế làm việc, hợp tác ngày càng linh hoạt cho các chuyên gia trong và ngoài nước khi tham gia vào các dự án, chương trình nằm trong chiến lược phát triển quốc gia của Việt Nam. Gần đây nhất, tháng 12/2021, Mạng lưới các Hội trí thức kiều bào hỗ trợ đổi mới sáng tạo và thương mại hoá công nghệ đã ra mắt, được điều hành bởi 21 Chủ tịch của các Hội trí thức kiều bào tiêu biểu đến từ 15 quốc gia, hầu hết là từ các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Đức... Đây là bước tiến quan trọng trong công tác thu hút nguồn lực trí tuệ của NVNONN, đồng thời mở ra một hướng đi mới, không chỉ kết nối các chuyên gia, trí thức ở các nước lại với nhau để giao lưu, đóng góp về khoa học, học thuật mà còn kết nối mạng lưới trí thức kiều bào với các cơ quan, nhà khoa học, trung tâm nghiên cứu trong nước.
Có thể nói, sự đóng góp của các cá nhân NVNONN là chuyên gia, trí thức, nhà khoa học trong thời gian qua đã khẳng định tình yêu nước sâu nặng và tinh thần nhiệt huyết cháy bỏng luôn khát khao cống hiến trí tuệ cho quê hương, đất nước.
II. Một số vấn đề tồn tại trong công tác huy động trí thức NVNONN và nguyên nhân
1. Một số tồn tại
Hiện nay, các bộ ngành và địa phương trong nước thường xuyên triển khai nhiều biện pháp đa dạng để thu hút nguồn lực của trí thức kiều bào. Tuy nhiên, kết quả đạt được còn chưa được như mong muốn và chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của kiều bào.
Số lượng trí thức, chuyên gia, nhà khoa học NVNONN về nước trực tiếp tham gia đóng góp và xây dựng đất nước còn rất khiêm tốn, hiện mới dừng lại ở mức gần 300 - 500 người/năm trên tổng số 600.000 trí thức người Việt Nam đang làm việc trong các cơ sở khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học và cơ sở kinh doanh ở nước ngoài, tức chỉ tương đương chưa đến 0,1%. Số lượng trí thức ngày càng tăng do số lượng sinh viên đi học nước ngoài càng nhiều. Ngoài một số ít cá nhân đã về nước lâu năm, còn lại phần lớn về nước giảng dạy, tham dự hội thảo, tặng trang thiết bị hoặc tham gia chương trình, dự án song phương trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, trí thức kiều bào chưa thể “bám rễ”, kết nối với đồng nghiệp trong nước, chưa phát huy được hết thế mạnh của mình.
Các bộ ngành, địa phương, các trường đại học, viện nghiên cứu đều có nhu cầu thu hút chuyên gia, trí thức kiều bào về hợp tác, làm việc, tuy nhiên chưa có các chương trình, dự án khả thi; vai trò của trí thức kiều bào mới được đề cập chung chung trên nhiều văn bản giấy tờ, kết quả của các cuộc hội nghị, hội thảo mà không được triển khai trên thực tế hoặc các kiến nghị, đề xuất của kiều bào chưa được giải quyết. Các bộ ngành, địa phương chưa xác định được nhu cầu sử dụng cũng như thiếu thông tin về chuyên gia, trí thức NVNONN nên rất khó trong việc tham khảo và sử dụng…
Dù xuất hiện ngày càng nhiều các gương mặt người gốc Việt có uy tín trên chính trường các nước nhưng chưa tận dụng được tầm ảnh hưởng và tiếng nói của họ để ủng hộ Việt Nam trên trường quốc tế, chưa tranh thủ được họ để nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại (như trong việc đưa mối quan hệ với các nước đi vào chiều sâu). Có thể nhận thấy các nhân vật gốc Việt có uy tín trong hoạt động chính trị của mình hiếm khi lên tiếng về những vấn đề liên quan tới lợi ích của Việt Nam cũng như rất ít đề cập đến mối liên hệ giữa họ với đất nước, cho thấy việc thu hút nguồn lực của đối tượng này chưa được triển khai hiệu quả.
Việc đầu tư về tài chính và nhân lực trong nước dành cho việc thu hút nguồn lực của chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài còn khiêm tốn.
2. Nguyên nhân
a. Vấn đề chủ trương, chính sách:
- Việc ban hành và triển khai thực hiện một số cơ chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan đến thu hút người lực người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài nói riêng vẫn còn nhiều bất cập. Nhìn chung, các chính sách đã được ban hành chưa đủ mạnh, nhiều chế độ ưu đãi hiện nay không còn phát huy hiệu quả; các chính sách cũng chưa đủ tạo một khung chế độ đãi ngộ cụ thể, hấp dẫn về điều kiện sống, làm việc và học tập cho NVNONN và gia đình, con em họ khi về nước làm việc. Hiện nay, với việc thực hiện Luật cư trú, Luật Xuất nhập cảnh, Luật Nhà ở và Luật Đất đai, vấn đề cư trú, xuất nhập cảnh, sở hữu nhà ở không còn là vướng mắc với NVNONN nói chung, nhưng lại không còn là ưu đãi đối với chuyên gia, trí thức, doanh nhân NVNONN nói riêng.
Mặc dù đã ban hành một số Nghị định nhằm thu hút cá nhân là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học tại Việt Nam (Nghị định 87/2014/NĐ-CP; Nghị định 40/2014/NĐ-CP; Nghị định 27/2020/NĐ-CP) với quy định tương đối đầy đủ về tuyển dụng, tiền lương, nhà ở, tiếp cận thông tin, khen thưởng, vinh danh và nhiều chính sách khác, tuy nhiên, thực tiễn thi hành các văn bản này gặp nhiều khó khăn do thiếu các văn bản hướng dẫn kịp thời, đồng bộ[2]. Đến nay, chỉ có một số tổ chức, địa phương trong nước thực sự quan tâm và thu hút được sự tham gia của trí thức kiều bào (như TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà Nội, Đại học Quốc gia), còn lại hầu hết khá thụ động trong triển khai việc thu hút lực lượng này.
Việc triển khai chính sách tại một số cơ quan còn chưa cởi mở, có nơi còn yêu cầu các thủ tục hành chính không cần thiết, gây khó khăn cho các trí thức, chuyên gia NVNONN có nhu cầu về nước làm việc.
Bên cạnh đó, các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia có nhiều chiến dịch thu hút các chuyên gia, trí thức trình độ cao, nhân tài bằng những dự án lớn và lương bổng hấp dẫn nên Việt Nam khó có lợi thế cạnh tranh trong khu vực. Trong khi đó, ở Việt Nam, nhất là ở cấp địa phương còn thiếu các chương trình, dự án hợp tác cụ thể, khả thi, chế độ đãi ngộ, thu nhập cho kiều bào còn nhiều hạn chế, thiếu sức cạnh tranh, thiếu hấp dẫn. Vì vậy kiều bào mặc dù quan tâm và có khả năng đóng góp nhưng chưa có điều kiện thực hiện.
Ngoài ra những đề xuất, kiến nghị, các công trình nghiên cứu, các đối tác nước ngoài do kiều bào giới thiệu chưa có sự tiếp nối, ứng dụng, đưa vào thực tiễn, thậm chí không được phản hồi, tiếp thu, khiến kiều bào nản lòng. Chưa thường xuyên chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị của bà con kiều bào để kịp thời phản ánh với chính quyền các cấp nhằm giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của kiều bào cũng như các công việc có liên quan đến công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo sự gắn bó lâu dài với người Việt Nam ở nước ngoài. Điều này gây ra ảnh hưởng tiêu cực trong kiều bào, tạo cho bà con tâm lý không được tôn trọng, lắng nghe, đồng cảm và làm giảm nhiệt huyết của bà con khi đầu tư, hoạt động trong nước. Trong khi, mặc dù khu vực tư đã xuất hiện một số doanh nghiệp, tổ chức sẵn sàng “chiêu mộ” trí thức kiều bào, nhưng số lượng chưa nhiều, khả năng tài chính chưa mạnh để có thể trả lương cho các chuyên gia, trí thức NVNONN có trình độ cao. Sự hỗ trợ của nhà nước, kể cả dưới hình thức tài chính lẫn chính sách đối với khu vực tư trong việc sử dụng nguồn lực này là cần thiết.
b. Các vấn đề khách quan về kinh tế - xã hội: điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học và môi trường học thuật chuyên nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó là những khác biệt về thể chế, rào cản ngôn ngữ, nhận thức không tương đồng về các vấn đề, đặc biệt các vấn đề chuyên môn sâu giữa chuyên gia, trí thức NVNONN và các đồng nghiệp trong nước.
Hiện nay, chúng ta chưa có cơ sở dữ liệu mở có khả năng liên kết mạng lưới cộng đồng trí thức kiều bào trên thế giới, vừa cập nhật hồ sơ của các cá nhân và chia sẻ thông tin về nhu cầu thu hút ở trong nước, vừa trở thành một diễn đàn tăng cường kết nối tri thức Việt ở trong cũng như ngoài nước. Đây không chỉ là cơ sở dữ liệu mà còn là một mạng lưới có sự điều phối cũng như có các hoạt động để tăng cường hiệu quả liên kết của các thành viên. Điều này đặc biệt cần thiết vì hiện nay trong nước đang rất cần tri thức và kinh nghiệm của các chuyên gia kiều bào giỏi để hợp tác phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao đang được Chính phủ ưu tiên hiện nay như công nghệ điện hạt nhân, vũ trụ, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ sinh học...
c. Nguyên nhân về bộ máy tổ chức và con người
Bộ máy tổ chức, cán bộ cho công tác cộng đồng cả ở trong và ngoài nước chưa đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ đặt ra. Cơ quan chuyên trách về vấn đề kiều bào là Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao và cán bộ phụ trách cộng đồng tại cơ quan đại diện chưa được đầu tư đúng mức về nhân lực, cả về số lượng và chất lượng để triển khai được tối đa các công tác hỗ trợ và vận động kiều bào.
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và công tác thu hút nguồn lực trí thức kiều bào chưa chặt chẽ, đồng bộ. Nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan địa phương chưa xác định được nhu cầu sử dụng cũng như thiếu thông tin về chuyên gia, trí thức, doanh nhân kiều bào, thậm chí có nơi còn cho rằng, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài chỉ do cơ quan chuyên trách thực hiện, vì vậy chưa chủ động liên lạc, thu hút nguồn lực của kiều bào về địa phương, lĩnh vực mình phụ trách. Nhiều địa phương có cách hiểu, thực hiện một số quy định pháp luật liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài[3] chưa thống nhất, chưa đúng quy định, gây ra khó khăn cho kiều bào. Ở nhiều cấp độ còn chưa hết thành kiến, còn tâm lý e ngại hoặc coi nhẹ vai trò đóng góp của kiều bào, một số nơi còn mang tư tưởng cảnh giác, phân biệt, coi kiều bào là người nước ngoài, là đối tượng riêng, cần phải đối xử như người nước ngoài, không đồng nhất với người Việt trong nước. Điều này đi ngược lại với tinh thần chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước coi người Việt Nam ở nước ngoài “là một bộ phận không tách rời” của dân tộc.
III. Một số giải pháp phát huy vai trò của trí thức người VNONN trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Qua thực tiễn và kết quả công tác thu hút nguồn lực NVNONN đã cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng nguồn lực trí thức NVNONN và tận dụng, phát huy được vai trò của nguồn lực này trong công cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng như quá trình xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Trong những bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh khác nhau, nguồn lực trí thức NVNONN được tập trung huy động khác nhau để phục vụ mục đích của từng giai đoạn. Đặc biệt, giai đoạn từ sau năm 2004 sau khi Nghị quyết 36 ra đời, với việc vị trí, vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và các nguồn lực kiều bào ngày càng được nhận thức đầy đủ và quan tâm coi trọng, công tác thu hút nguồn lực trí thức kiều bào đã được triển khai một cách toàn diện, kết hợp hài hòa giữa các biện pháp dân vận và các biện pháp mang tính quản lý nhà nước. Việc thu hút nguồn lực trí thức kiều bào được thực hiện một cách khéo léo, hợp lý và không ngừng có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của người Việt Nam ở nước ngoài.
Trong thời gian tới, nguồn lực kiều bào nói chung và nguồn lực trí thức nói riêng sẽ ngày càng có vai trò quan trọng hơn nữa trong việc phát triển kinh tế-xã hội trong nước và củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Để tăng cường hiệu quả thu hút nguồn lực này nhằm phục vụ sự nghiệp đổi mới, trước hết là góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với định hướng năm 2030, tầm nhìn năm 2045 vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, Bộ Ngoại giao xin kiến nghị một số giải pháp sau:
(i) Giải pháp về thông tin, tuyên truyền
Cần tiếp tục tăng cường quán triệt sâu rộng chủ trương của Đảng và Nhà nước, nâng cao nhận thức chung của tất cả các Bộ, ngành, địa phương về công tác vận động, thu hút chuyên gia, trí thức NVNONN.
Tăng cường thông tin trong nước để quán triệt chủ trương đại đoàn kết dân tộc; nhận thức rõ tiềm năng và nhu cầu hợp tác cụ thể để thu hút chuyên gia, trí thức NVNONN; tạo sự đồng thuận trong xã hội khi có những chính sách ưu đãi chuyên gia, trí thức chênh lệch với mặt bằng trong nước.
Đẩy mạnh công tác thông tin cho cộng đồng và chuyên gia, trí thức NVNONN nhằm khích lệ tinh thần yêu nước, trách nhiệm với quê hương trong việc đóng góp theo khả năng và điều kiện của mình để thực hiện công tác xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Động viên, biểu dương kịp thời các cá nhân, tổ chức thu hút, hợp tác có hiệu quả với chuyên gia, trí thức NVNONN, coi đây là mô hình kiểu mẫu để áp dụng ở các địa phương, đơn vị khác. Cần nghiên cứu, xem xét việc đơn giản hóa các thủ tục khen thưởng đối với các chuyên gia, trí thức kiều bào có thành tích xuất sắc, nhiều đóng góp cho đất nước. Thực tế, để có được danh hiệu khen thưởng, kiều bào phải thông qua rất nhiều thủ tục rườm rà, thời gian chờ đợi dài, tạo cho họ cảm giác họ phải “đi xin” danh hiệu đó thay vì được Nhà nước trân trọng trao tặng.
(ii) Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
Chính sách về trọng dụng, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với Nghị định 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014, Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22/9/2014 và Nghị định 27/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là NVNONN và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Nhà nước có thể ban hành những chính sách cho phép bổ nhiệm chuyên gia, trí thức NVNONN có năng lực vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan cấp Cục, Vụ, Viện hoặc Trưởng phòng thí nghiệm, Tổng Công trình sư, Giám đốc dự án... Đồng thời, không chỉ chú trọng vào các chuyên gia, trí thức đã thành danh ở nước ngoài mà cần mạnh dạn tin dùng và tạo cơ hội cho các tài năng trẻ tuổi. Có thể xem xét khả năng ban hành quy chế theo hướng mở rộng phân cấp và tăng tính tự chủ cho các bộ ngành, địa phương hay các đơn vị cơ sở của các cơ quan nghiên cứu khoa học, đào tạo có nhu cầu sử dụng chuyên gia, trí thức NVNONN về làm việc hoặc nghiên cứu khả năng trao quyền cho người đứng đầu (Bộ/địa phương) chịu trách nhiệm xem xét đặc cách lựa chọn, tuyển dụng những cá nhân thực sự có tài năng (có thể miễn, đơn giản hóa một số quy định mang tính hành chính, thủ tục).
Bên cạnh đó, cần chú trọng thu hút những sinh viên tốt nghiệp xuất sắc từ các nước trở về; có chính sách sử dụng những lao động có kỹ năng, tay nghề được tu nghiệp tại các nước phát triển.
Mỗi bộ ngành, địa phương cần dựa trên đặc điểm và nhu cầu thực tiễn để xây dựng những chiến lược và chính sách linh hoạt nhằm trọng dụng nguồn nhân lực tài năng phù hợp. Tránh trường hợp áp dụng rập khuôn, máy móc, hưởng ứng theo phong trào, không thiết thực, hiệu quả, gây lãng phí nguồn chất xám của đất nước. Cùng với đó cũng cần biểu dương, khuyến khích, nhân rộng các mô hình, cách làm hay, sáng tạo về thu hút, trọng dụng nhân tài ở các bộ ngành, địa phương để áp dụng ở các nơi khác; kết hợp tuyên truyền, quảng bá thông tin để tạo động lực cũng như sức lan tỏa đối với cộng đồng trí thức NVNONN, qua đó tạo sức hút đối với những cá nhân điển hình đã có thời gian sinh sống, học tập hoặc thành danh ở nước ngoài.
Cần phải có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chuyên gia, trí thức NVNONN. Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Nhờ có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mà kiều dân mới thấy những đóng góp của họ được trọng dụng một cách xứng đáng và tạo được động lực khuyến khích họ trở về quê hương xây dựng và phát triển đất nước.
Bên cạnh quản lý nhà nước, để thu hút được nguồn lực tri thức của kiều bào, cần chú trọng công tác dân vận, mở rộng tiếp xúc và có biện pháp vận động phù hợp đối với những trí thức kiều bào có uy tín, tầm ảnh hưởng ở các nước.
Chính sách về đãi ngộ, khi quyết định trở về Việt Nam làm việc, các chuyên gia, trí thức NVNONN và gia đình phải hy sinh cuộc sống ổn định, vị thế đã được khẳng định và nhiều lợi ích khác đang được hưởng ở nước ngoài. Để huy động được những nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi phải có chính sách trọng đãi hợp lý, đảm bảo những điều kiện sống ổn định, cung cấp nhà ở, bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục con cái của họ, để họ có thể yên tâm làm việc mà không lo lắng đến những vấn đề khác.
Nhà nước cần xây dựng chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với chuyên gia, trí thức NVNONN có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao về nước tham gia các đề án, chương trình cấp Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Chế độ trả lương trong thời gian thực hiện Dự án và hợp đồng lao động được thỏa thuận và ký kết giữa chuyên gia, trí thức NVNONN với các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp trong nước (không áp mức lương trần). Ngoài lương, Nhà nước cấp nhà công vụ, hỗ trợ các khoản phụ cấp và đãi ngộ khác như vé máy bay cho cá nhân kiều bào và gia đình, trợ cấp thuê chỗ ở, phương tiện đi lại trong thời gian làm việc trong nước. Đối với khu vực tư nhân có sử dụng chuyên gia, trí thức NVNONN có trình độ cao, thuộc lĩnh vực ưu tiên, Nhà nước có thể hỗ trợ trực tiếp tài chính hoặc bằng cơ chế thuận lợi.
Có thể nghiên cứu, xây dựng mô hình thí điểm thu hút NVNONN có trình độ về nước phát triển khoa học công nghệ. Thành lập một số trung tâm trong một số ngành mũi nhọn và lĩnh vực ưu tiên hiện nay, là đầu mối kết nối với các trung tâm nghiên cứu xuất sắc trên thế giới và là đầu tàu nhằm cải tiến nền khoa học công nghệ nước nhà. Phải tạo dựng những trung tâm đó thành môi trường “thiên đường” với đầy đủ điều kiện để hấp dẫn sự trở về lâu dài của các nhân tài NVNONN và họ có thể phát huy được tối đa sở trường của mình, cống hiến hết mình cho công việc. Công tác tuyển dụng tại trung tâm cũng phải được tiến hành công khai, minh bạch để ngay từ đầu tuyển chọn được đội ngũ nhân lực nòng cốt, chuyên nghiệp cả về chuyên môn, kỹ thuật và hành chính, đặc biệt là người đứng đầu. Thành lập Hội đồng tuyển chọn độc lập gồm các nhà khoa học kiều bào cùng chuyên gia nhân lực nước ngoài uy tín để sàng lọc ứng viên, sau đó Hội đồng tuyển dụng trong nước sẽ lựa chọn từ những ứng viên đó. Tại đây cũng cần có cơ chế đặc biệt nhằm đảm bảo môi trường tự do học thuật theo tiêu chuẩn quốc tế với nguồn tài chính dồi dào (Nhà nước có thể hỗ trợ thời gian đầu), cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, hiện đại ngang tầm thế giới cũng như mức đãi ngộ xứng đáng với năng lực.
(iii) Nhóm giải pháp về kinh phí
Hiện nay ngân sách cấp cho Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài – đơn vị chuyên trách về công tác đối với NVNONN để triển khai các hoạt động vận động, thu hút nguồn lực trí thức NVNONN còn rất hạn chế. Với nguồn lực ngân sách hạn chế, đã đến lúc cần rà soát và cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc sử dụng ngân sách thực hiện nhiệm vụ này, việc này sẽ hiệu quả nếu các bộ, ngành tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp, xây dựng những kế hoạch, đề án đối với từng lĩnh vực cụ thể, đưa ra mục tiêu và đề xuất ngân sách cho các hoạt động của các đề án này.
Ngoài ra, cần đầu tư nguồn lực cho việc xây dựng và triển khai các kế hoạch, đề án phục vụ thu hút nguồn lực kiều bào gồm: hỗ trợ cho các chuyên gia, trí thức NVNONN về nước làm việc (tiền ăn, ở, đi lại trong nước); thành lập một số trung tâm xuất sắc theo chuẩn mực quốc tế trong vài ngành mũi nhọn và lĩnh vực ưu tiên hiện nay của Việt Nam, từ đó chiêu mộ những nhân tài, chuyên gia, trí thức NVNONN về làm việc và nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực nội sinh về khoa học, công nghệ của đất nước; cung cấp cho vay tín dụng ưu đãi khi kiều bào thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam (đây là một trong những nội dung thuộc “Chính sách Hoa vận” đã được Trung Quốc áp dụng rất thành công để kêu gọi được 25% trong số những người Hoa đi đào tạo ở nước ngoài trở về Trung Quốc kinh doanh và lập nghiệp).
Bên cạnh đó, nên nghiên cứu sử dụng một phần Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia (NAFOSTED) để thu hút chuyên gia, trí thức NVNONN với quy chế phù hợp hoặc thành lập Quỹ hỗ trợ thu hút riêng. Có thể học tập mô hình dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ (FIRST)” do Ngân hàng Thế giới tài trợ cho hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam (dự án 5 năm, đã kết thúc ngày 31/12/2019). Dự án đã hỗ trợ tài chính cho các nhóm nghiên cứu trực thuộc các trường đại học/viện nghiên cứu nhằm thu hút hợp tác chuyển giao công nghệ với các trường đối tác, các chuyên gia giỏi ở nước ngoài, trong đó bao gồm rất nhiều chuyên gia giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài, hình thành các mối quan hệ hợp tác, thu hút nhân tài và tăng cường năng lực nghiên cứu trong nước. Đây là một mô hình đáng được nghiên cứu sâu, đánh giá tính hiệu quả để tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới./.
TS. Nguyễn Minh Vũ
Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng,
Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao
[1]Chưa bao gồm số lượng chuyên gia, trí thức kiều bào về Việt Nam tham dự hội nghị, hội thảo và các đoàn trao đổi ngắn hạn.
[2] Hiện tại còn thiếu các quy định pháp luật liên quan đến một số các lĩnh vực mới như AI, Blockchain, Fintech.
[3] Như quy định về việc mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài tại Luật Nhà ở năm 2014.