1. Bối cảnh và những thành tựu bình đẳng giới trong chính trị ở nước ta
Những quốc gia có chỉ số giới cao như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan,... cũng đồng thời cũng là những quốc gia có chỉ số phúc lợi xã hội và học vấn của phụ nữ, trẻ em được cải thiện tốt[3].
Cũng vì lẽ đó, khi bàn về sự cần thiết trao quyền cho phụ nữ, các nghiên cứu trên thế giới đều chia sẻ ở các giá trị tốt đẹp chung như: (1) Trao quyền năng cho phụ nữ là đảm bảo cơ hội công bằng và bình đẳng trong trong tiếp cận quyền chính trị bởi vì phụ nữ chiếm hơn ½ dân số họ có quyền nắm giữ các vị trí trong ra quyết định; (2) Tiếp cận phụ nữ và nam giới có những trải nghiệm cuộc sống khác nhau do các đặc điểm xã hội và sinh học khác nhau, vì vậy họ cần bảo đảm sự đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình ra các quyết định chính trị; (3) Phụ nữ và nam giới có những lợi thế và điểm mạnh khác nhau, vì vậy sẽ hiệu quả hơn khi mỗi nhóm đại diện lợi ích của nhóm mình và phát huy được lợi thế của mỗi giới trong quá trình tham chính.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu Quốc hội nữ khóa XIV tại Trụ sở Chính phủ, tháng 11-2019_Ảnh: TTXVN
Với Việt Nam, trong mỗi thời kỳ phát triển, đặc biệt kể từ ngày thành lập Đảng, Ðảng ta luôn coi trọng công tác phát triển phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, trong đó nhấn mạnh cả vấn đề trao quyền chính trị cho phụ nữ. Quan điểm của Ðảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt trong các nghị quyết của Ðảng qua các kỳ Đại hội. Nhiều chính sách được ban hành nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định rõ nội dung lãnh đạo công tác phụ nữ là: “phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập”[4]; “Thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp phát triển thanh niên, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Giảm dần khoảng cách giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”.[5]
Với những chủ trương, đường lối đúng đắn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nên trong lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong tham gia lãnh đạo quản lý nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Dấu ấn rõ nét đó là chỉ số bình đẳng giới không ngừng được cải thiện. Năm 2020, Việt Nam được xếp vị trí thứ 87 trên tổng số 153 quốc gia được khảo sát trên thế giới về thu hẹp khoảng cách giới. Nhìn lại những con số thống kê qua các kỳ bầu cử cho thấy những thành quả quan trọng mà cả hệ thống chính trị đã quyết tâm thực hiện trong lĩnh vực tham chính của phụ nữ,… Kết quả bầu cử Đại biểu quốc hội khóa XV tỷ lệ đại biểu là nữ đạt 30,26% và đây cũng là lần đầu tiên từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá VI trở lại đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là phụ nữ đạt trên 30%. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 26,5% (tăng 1,37% so với nhiệm kỳ trước); cấp huyện đạt 27,9% (tăng 3,2% so với nhiệm kỳ trước). Việc bố trí lãnh đạo nữ trong Quốc hội kỳ này chiếm gần 40%. Đây là minh chứng cho thấy sự ưu việt trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người của Đảng, Nhà nước ta và cũng cho thấy sự vươn lên của phụ nữ Việt Nam, đưa vị thế phụ nữ Việt Nam tham gia Quốc hội đứng thứ hai khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đứng thứ 6 ở châu Á. Tại Đại hội XIII, trong số Ủy viên Trung ương Đảng chính thức được bầu có 18 đại biểu nữ, tăng 01 đại biểu so với nhiệm kỳ khóa XII. Trong 63 bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 có tới 9 người là nữ thuộc các tỉnh: Lạng Sơn, Lai Châu, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ngãi và An Giang. Đây là số lượng nữ bí thư tỉnh ủy nhiều nhất từ trước đến nay. Theo thống kê của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, trong nhiệm kỳ này, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21%, tăng 2%; cấp trên cơ sở đạt 17%, tăng 2%. Đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16%, tăng 3% so với nhiệm kỳ trước.[6] Trong bộ máy hành chính nhà nước cấp Trung ương và địa phương tính đến hết tháng 7-2020, tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ (30) có lãnh đạo nữ đạt 36,6% (11/30)[7].
2. Những thách thức, rào cản trong tiến trình trao quyền cho phụ nữ
Mặc dù những kết quả đạt được trong lĩnh vực bình đẳng giới rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, đánh giá tổng thể thì những kết quả đạt được trong bình đẳng giới nói chung và trong lĩnh vực tham chính nói riêng chưa bền vững, thiếu ổn định. Trên thực tế khá nhiều quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước chưa thực sự đi vào cuộc sống ở cả cấp Trung ương, bộ, ngành, địa phương. Quy định về tỷ lệ phụ nữ tham chính trong xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước không được bảo đảm ở nhiều địa phương. Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính phủ, năm 2017, đánh giá việc triển khai thực hiện 22 chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 còn có 8 chỉ tiêu dự kiến sẽ đạt vào năm 2020 và có 2 chỉ tiêu thực hiện trong nhiệm kỳ 2016 - 2021 không đạt, gồm: Chỉ tiêu nữ tham gia các cấp ủy, đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp và chỉ tiêu lãnh đạo chủ chốt là nữ”(6) Thực tế đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 vừa qua cho thấy nhiều địa phương, đơn vị không đạt tỷ lệ nữ theo quy định. Trong khi Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, quy định việc: “Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu". Sự hiện diện của phụ nữ trong Đảng, trong Quốc hội, Chính phủ và hệ thống chính trị các cấp khá khiêm tốn so với tiềm năng và nguồn lực giới nữ, đặc biệt cấp cán bộ chiến lược. Các nghiên cứu về sự tham chính của phụ nữ ở Việt Nam trong vài thập kỷ qua đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thực tế sự tham chính của phụ nữ còn thấp và xu hướng tăng chưa bền vững là do yếu tố văn hoá truyền thống/Chuẩn mực giới/Định kiến giới/mô hình phân công lao động theo truyền thống và quá trình thực thi chính sách công về bình đẳng giới trong tham chính chưa hiệu quả, vẫn còn nhiều khoảng trống giữa chính sách và thực tiễn.
Sự thiếu ổn định và bền vững trong trong trao quyền cho phụ nữ được thể hiện như tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội chưa đạt mục tiêu đề ra; Nữ uỷ viên BCH Trung ương khoá XIII chỉ đạt 9.5%; nhiều tỉnh còn có khoảng trống quyền lực theo giới trong cơ cấu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ... hiệu ứng “Nam trưởng nữ phó” có tính phổ biến trong các cấp lãnh đạo ở Việt Nam được duy trì từ nhiều thập kỷ qua. Tại các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương, chỉ có 2/22 (chiếm 4,55%) nữ bộ trưởng và tương đương trong nhiệm kỳ 2011 – 2016; nhiệm kỳ 2021-2026 vẫn giữ 2/22 nữ bộ trưởng; nữ thứ trưởng và tương đương là 11/142 (chiếm 7,7%). Tỷ lệ nữ vụ trưởng và tương đương đạt 7,8%, nữ vụ phó và tương đương đạt 13,4%. Tòa án nhân dân tối cao không có nữ lãnh đạo chủ chốt. Trong khối mặt trận và đoàn thể (trừ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) chỉ có 4/21 cấp phó là nữ, không có cấp trưởng là nữ ở các cơ quan Trung ương của Mặt trận Tổ quốc[8]. Và đây chính là những khoảng trống cần sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong hoạch định và thực thi chính sách bình đẳng giới trong chính trị.
3. Những hàm ý thực thi chính sách bình đẳng giới trong tham chính
Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là hết sức cần thiết, đảm bảo tiếng nói đại diện, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của nữ giới cũng như đóng góp vào quá trình phát triển xã hội bền vững. Như lời của Bộ trưởng Tài chính Indonesia nhận định: “Phụ nữ chính là tương lai của kinh tế châu Á nếu như họ có thêm cơ hội được tiếp cận việc làm và học tập cũng như phá bỏ những rào cản định kiến ngăn cản sự phát triển”. Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam có cơ hội tham chính, quyền năng chính trị của họ được thúc đẩy bởi quy định tạo điều kiện thuận lợi của chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên nếu so với tiềm năng và lợi thế của phụ nữ thì còn có nhiều khoảng cách cần được rút ngắn.
Quy trình hoạch định chính sách công đều có các yêu cầu về mục tiêu cần đạt được và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình thực thi chính sách khá rất cụ thể. Tuy nhiên, khi tổ chức thực thi chính sách thì các mục tiêu của chính sách chưa đạt được thì ít khi có sự phân tích, đánh giá chủ thể nào phải chịu trách nhiệm giải trình đối với các mục tiêu chưa đạt. Đây chính là một trong những vấn đề cần được tính đến trong tương lai để tăng được sức nặng của hiệu quả chính sách trong lĩnh vực bình đẳng giới. Để đạt được mục tiêu mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã xác định rõ đến năm 2030 là: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%” và yêu cầu của Đại hội XIII là: “Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số ở các cấp, nhất là cấp cơ sở”[9] thì việc đưa ra các giải pháp đồng bộ đối với quá trình thực thi chính sách bình đẳng giới trong tham chính ở Việt Nam hiện nay là hết sức quan trọng.
Thứ nhất, Coi trọng công tác tăng cường truyền thông để làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của các cấp lãnh đạo và các nhóm xã hội trong đó có nhóm phụ nữ, về vai trò phụ nữ trong tham gia chính trị, lãnh đạo đất nước. Phát huy vị thế chính trị của phụ nữ cần phải được xem xét không chỉ là một công cụ để đạt mục đích đã đề ra mà còn là một giá trị cơ bản và quyền con người mà nhân loại theo đuổi. Sự hiện diện của phụ nữ trong mọi chu trình của chính sách đến lãnh đạo chính trị thì càng góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển bền vững của quốc gia. Chú trọng đưa lồng ghép giới vào “dòng chảy chủ đạo” trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách thực chất và đúng quy trình.
Thứ hai, Tăng cường hiệu quả của thực thi chính sách bình đẳng giới trong tham chính bằng cách xây dựng kế hoạch giám sát quá trình thực thi chính sách công về bình đẳng giới trong tham chính, trong đó đặc biệt chú trọng chỉ tiêu đề ra và chỉ tiêu đạt được. Bên cạnh đó cần có sự phân công cụ thể trách nhiệm các bên liên quan đến việc thực thi, giám sát chính sách bình đẳng giới và cam kết của người đứng đầu tổ chức đối với công tác này. Định kỳ các tổ chức công nên thực hiện báo cáo về tỷ lệ sự tham chính của phụ nữ của đơn vị mình (tăng – giảm – giữ nguyên cả theo cấu trúc quyền lực ngang và cấu trúc quyền lực dọc). Hệ thống dữ liệu đó sẽ phản ánh được bản đồ phụ nữ tham chính theo tỉnh/thành/ngành và các cấp, các lĩnh vực) để từ đó phân tích các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện KT-XH của địa phương, ngành mình.
Thứ ba, Cần có những nghiên cứu khoa học bài bản, những cuộc khảo sát xã hội học chọn mẫu trên quy mô toàn quốc, đánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị (đánh giá số lượng, chất lượng, vị trí đảm nhận); cần coi trọng thỏa đáng xây dựng kế hoạch và quy hoạch bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị các cấp trên cơ sở lồng ghép giới và sự tiến bộ của phụ nữ, gắn với quá trình tham gia xây dựng luật, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới mà mục tiêu Chiến lược quốc gia Bình đẳng giới đến năm 2030 đã đề ra.
Thứ tư, trước các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc; Bầu cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp cần có tổng kết, đánh giá về quá trình thực thi các mục tiêu tỷ lệ nữ tham chính đã được đề ra trong các chính sách và các nghị quyết về công tác cán bộ nữ của địa phương, ngành mình. Thông qua việc đánh giá các chỉ tiêu đạt được và các chỉ tiêu chưa đạt được để phân tích nguyên nhân của vấn đề để đưa ra các giải pháp khắc phục phù hợp với bối cảnh của địa phương, ngành.
Thứ năm, Bộ Nội vụ, Ban Tổ chức Trung ương cần tham mưu và thực hiện công tác quy hoạch dài hạn cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ với các chỉ tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện trên cơ sở rà soát các quy định của Đảng và Nhà nước về độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, nghỉ hưu, đặc biệt là Bộ Luật Lao động năm 2019 mới ban hành, theo đó có thay đổi về quy định tuổi nghỉ hưu của phụ nữ (60 tuổi) và nam giới (62 tuổi) theo lộ trình. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ đưa vào quy hoạch có mục riêng cho cán bộ nữ. Đặc biệt, đối với phụ nữ nhóm dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương hơn thì cũng cần có những giải pháp đặc thù để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và phát triển cán bộ nữ ở nhóm đối tượng này.
Thứ sáu, Về dài hạn cần nghiên cứu và hướng tới xây dựng bộ cơ sở dữ liệu/Bộ chỉ số về sự tham chính của phụ nữ trong khu vực công đo lường từ các Bộ/Ngành/Cơ quan trung ương và hệ thống chính trị tỉnh- huyện – xã của 63 tỉnh/thành trên cả nước. Cơ sở dữ liệu/Bộ chỉ số (gồm nhiều trục nội dung, nhiều lĩnh vực, nhiều tiêu chí) sẽ giúp Ban Tổ chức Trung ương; Bộ Nội vụ cùng hệ thống ngành dọc Tổ chức và Nội vụ cập nhật được thực trạng số lượng, vị trí tham gia của cán bộ nữ theo nhiệm kỳ có sự so sánh tương quan giữa các tổ chức công để kịp thời đưa ra các giải pháp can thiệp về mặt chính sách phù hợp (kinh nghiệm của các tổ chức NGO Mỹ).
Đặng Thị Ánh Tuyết[1]
Lại Thị Thu Hà[2]
[1] PGS,TS Học viện CTQG Hồ Chí Minh
[2] ThS, Nghiên cứu viên chính, Học viện CTQG Hồ Chí Minh
[3]Liên minh Nghị viện Thế giới, 2015. Phụ nữ trong Nghị viện các quốc gia
[4] VKĐH XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 1, HN, 2021, tr.169.
[5]VKĐH XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 1, HN, 2021, tr.271
[6] https://baoquankhu1.vn/trang-in-255256.html
[7] http://www.xaydungdang.org.vn/home/nhan_quyen/2021/15278/thuc-day-binh-dang-gioi-trong-lanh-dao-quan-ly.aspx
[8] Trần Thị Minh Thi: Bình đẳng giới trong chính trị từ chiều cạnh thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017, tr. 136
[9]VKĐH XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, tập 2, HN, 2021, tr.242-243