Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Những mục tiêu phát triển đất nước do Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đưa ra có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn ​

Ngày phát hành: 23/04/2021 Lượt xem 90118

 

Đại hội XIII của Đảng được tổ chức vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện thắng lợi nhiều mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đất nước đã qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Quy mô, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước được nâng lên. "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay"[1]. Đây là động lực, nguồn lực quan trọng để đất nước ta vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.

Nêu tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[2]. So với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung "năng lực cầm quyền" vào nội dung "nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng"; bổ sung "hệ thống chính trị", "toàn diện", "tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa"; xác định "đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Về mục tiêu cụ thể:

- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Việc xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng ta trong 35 năm đổi mới và phù hợp với cách tiếp cận của thế giới.

Có thể thấy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu không phải chỉ cho nhiệm kỳ 2021 - 2025 mà còn tầm nhìn tới 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước và chúng ta gọi đây là khát vọng phồn vinh dân tộc.

Sau khi những mục tiêu của Đại hội đưa ra, đã có những quan điểm cho rằng những mục tiêu chính của Đại hội XIII là chủ quan, duy ý chí, không thực hiện được. Thực chất của luận điểm này là đòi dân tộc ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đã chọn và đi theo con đường khác, vì họ cho rằng đó là "con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt". Mục đích của những kẻ tung ra luận điệu trên là rất rõ ràng, nếu chưa thể xóa bỏ được chủ nghĩa xã hội, lái nước ta đi theo con đường khác - con đường tư bản chủ nghĩa, thì cũng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII – một Đại hội có tầm nhìn chiến lược cho cả một thời gian dài, một giai đoạn đặc biệt có nhiều sự kiện quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân tộc ta. Đây là những luận điệu sai lầm, không có cơ sở, phản động, phản khoa học.

Để xây dựng Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã nhận thức rất rõ và có bài học từ Đại VI về "bệnh chủ quan, duy ý chí". Duy ý chí là tuyệt đối hóa vai trò của ý chí con người trong cải tạo thực tiễn mà bỏ qua, ít tính đến điều kiện thực tiễn, coi thường hoặc thoát ly quy luật khách quan. Biểu hiện thường thấy của chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, bắt thực tiễn chạy theo ý chí chủ quan của con người, bất chấp quy luật khách quan. Cán bộ, đảng viên khi mắc phải căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn đến đề ra các chủ trương, quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành xã hội xa rời thực tiễn; đường lối, chủ trương, quyết sách không phản ánh lợi ích của tập thể, không thể hiện được ý chí của quần chúng nhân dân mà chỉ là lợi ích, ý chí của một bộ phận, một nhóm người nào đó. Mặt khác căn bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ khiến con người ta tuyệt đối hóa vai trò cá nhân, biện pháp mệnh lệnh hành chính, hành động bất chấp quy luật khách quan. Cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có quyền mắc bệnh chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng chức quyền, mất dân chủ, thờ ơ với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng... Những hệ lụy tiêu cực từ căn bệnh chủ quan, duy ý chí đối với đời sống kinh tế-xã hội là hết sức khó lường. Căn bệnh này nếu không được phát hiện, sửa chữa có thể dẫn đến khủng hoảng và thất bại; nếu được phát hiện và sửa chữa cũng sẽ trả giá cho những tổn thất, làm chậm tốc độ phát triển của xã hội.

Do đó Đảng ta đã rất thận trọng, xem xét thấu đáo cả về mặt lý luận và thực tiễn của đất nước, của thế giới; đã tham khảo ý kiến rộng rãi của tất cả các nhà khoa học, các tổ chức quần chúng và toàn thể nhân dân, trên cơ sở đó mới đưa ra những mục tiêu của Đại hội XIII và khẳng định là đúng đắn, khoa học, khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của đất nước ta và của xã hội loài người. Từ khi ra đời đến nay, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược. Nhờ đó, từ khi gánh vác trách nhiệm lãnh đạo dân tộc đến nay, Đảng luôn đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của lịch sử giao cho, làm nên những trang sử vẻ vang cho dân tộc Việt Nam.

Trước đó, vào những năm đầu thế kỷ XX, vấn đề xóa bỏ áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc, thực hiện "giải phóng dân tộc", giành độc lập, tự do là vấn đề tiên quyết của dân tộc Việt Nam. Giải quyết vấn đề này đã có nhiều cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc liên tiếp nổ ra nhưng đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài đến đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng có xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, phong trào có xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh, đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học là những phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến hoặc theo hệ tư tưởng tư sản, đều đã được lịch sử kiểm nghiệm, song vẫn không phải là con đường đúng đắn, hiệu quả để giải phóng dân tộc, mà trái lại, vẫn bế tắc, làm cho tình hình đất nước đen tối, không có đường ra. Thực tiễn đó khẳng định: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải tìm một con đường khác. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập.Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đi theo con đường mới - con đường cách mạng vô sản. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, là một tất yếu khách quan, là sự vận động hợp quy luật của lịch sử Việt Nam trong bối cảnh mới.

Từ khi ra đời, Đảng ta đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng và đến năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 "long trời, lở đất" thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào ngày 2/9/1945.

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", kiên cường bảo vệ và xây dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến "toàn dân", "toàn diện", "trường kỳ" phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, cùng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào ngày 30/4/1975. Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".

Dưới ngọn cờ tư tưởng và sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi mới thành lập đến nay luôn chú trọng xây dựng và lãnh đạo thực hiện các cương lĩnh chính trị phù hợp với điều kiện, yêu cầu của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Nhờ vậy, nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, cơ đồ, tiềm lực của đất nước sau 35 năm đổi mới đã tạo nên bệ phóng vững chắc đưa đất nước vươn lên những đỉnh cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cũng qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. "Từ một nước nhược tiểu, nghèo đói, ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao, nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng rộng mở, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư được tăng cường. Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế và thiết chế hợp tác kinh tế đa phương, có vai trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên thế giới"[3]. "Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước"[4].

Hiện nay, nhân dân ta đang vững bước đi trên con đường ấy, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với một vị thế và tư thế mới của những người làm chủ và biết làm chủ vận mệnh của mình, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Với những định hướng, chủ trương và giải pháp lớn, nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, nhân dân Việt Nam vững tin hướng tới tương lai. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao đã và đang đem lại cho dân tộc ta, nhân dân ta sự tự tin và sức mạnh mới, không có thế lực nào có thể cản bước, ngăn đường chúng ta đi tới.

Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là yếu tố đặc biệt quan trọng, đóng vai trò quyết định đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và địa vị làm chủ chân chính cho nhân dân, nâng tầm cao uy tín, vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Đó là thực tế, là hiện thực sinh động để bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, cho rằng, các mục tiêu của Đại hội XIII là sai lầm, là duy ý chí, là không thể thực hiện. Những kẻ đưa ra luận điệu nàyđã không hiểu (hay cố tình không hiểu) lịch sử và bản chất thực sự của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta đang hướng tới.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất lưu ý đến bệnh chủ quan, duy ý chí, đặc biệt là trong công tác của Đảng và cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội III của Đảng, sau khi nhận định "cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp", Người đã nghiêm khắc chỉ ra: "Nhưng chúng ta còn nhiều khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân... Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường giáo dục trong Đảng, đấu tranh khắc phục những khuyết điểm nói trên"[5]. Những khuyết điểm ấy cũng là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã chỉ ra là: "Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác".

Nhìn lại thực tiễn lịch sử, Đảng ta đã có những bài học thấm thía về căn bệnh này. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…" Từ nhận định đó cho thấy chủ quan, duy ý chí là một trong những nhân tố chủ yếu dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm trong việc hoạch định đường lối, chính sách, trong hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta suốt một thời gian dài. Bởi vậy, hiện nay các thế lực phản động, cơ hội chính trị thường lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót, yếu kém đã xảy ra trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước cũng như những suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên để gây ra những dao động về tư tưởng, mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta không phủ nhận những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình phát triển đi lên, nhưng có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của ngày hôm nay là sự nỗ lực, cố gắng rất đáng tự hào của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đúng là nước ta còn nghèo, thu nhập còn ở mức trung bình thấp, nhưng đó không phải là lỗi của con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta lựa chọn mà do chính thực dân, đế quốc và các thế lực thù địch, tay sai đã kéo lùi sự phát triển của đất nước ta. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua là bằng chứng hùng hồn của sự vươn lên, khẳng định quá trình chấn hưng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn.

Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo; đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Có thể nói các cán bộ, đảng viên và nhân dân hết sức kỳ vọng, mong muốn Đảng sẽ cụ thể hóa, thể chế những nội dung trong đường lối, chủ trương của Đảng vào các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng phải tiếp tục hoàn thiện bộ máy của hệ thống chính trị để tổ chức triển khai thực hiện thành công các nội dung Nghị quyết, đưa các nội dung Nghị quyết vào cuộc sống để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững hơn.

Một là, trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh đều phải kiên định, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước theo Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới", đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với các đại hội trước, Đại hội XIII bổ sung "kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng". Vấn đề mấu chốt nhất của xây dựng Đảng là phải không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đó là sự trung thành và vận dụng đúng đắn di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng; không ngừng củng cố, tăng cường nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; khắc phục và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.

Hai là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng thời đại hiện nay. Nếu đứng ngoài xu thế đó, đất nước không thể phát triển và khó bảo vệ được vững chắc. Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc và thế giới, vấn đề cốt lõi đặt ra cần phải tôn trọng luật pháp quốc tế - các nguyên tắc và quy phạm pháp luật được các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Bên cạnh đó, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam luôn gắn liền và phụ thuộc vào kết quả thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Do đó, phải kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi tình huống. Bởi vì, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam phải do toàn thể nhân dân Việt Nam ra sức bảo vệ.

Ba là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.Sau 35 năm đổi mới, một lần nữa bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại lại để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; trong đó, tư duy mới về đường lối đối ngoại của Đảng là một nguyên nhân quan trọng làm nên kết quả đó. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo, đến nay, nước ta là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế: Có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, thiết lập quan hệ đối tác với 16 quốc gia, quan hệ đối tác toàn diện với 14 quốc gia; là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, với toàn bộ các nước trong nhóm phát triển (G7), với 17/20 nước và tổ chức trong Nhóm các nền kinh tế mới nổi và phát triển hàng đầu thế giới (G20). Đồng thời, tham gia vào 70 tổ chức quốc tế và khu vực, ký trên 40 hiệp định thương mại song phương; có quan hệ kinh tế - thương mại với trên 220/255 quốc gia và vùng lãnh thổ; kim ngạch ngoại thương nhiều năm qua đạt từ 150 - 200% quy mô GDP, thu hút 270 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và gần 90 tỷ USD viện trợ phát triển chính thức (ODA) được cam kết. Nhờ có đường lối đối ngoại đúng đắn, đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các thiết chế liên kết khu vực và toàn cầu, như: AFTA, APEC, ASEM, TPP, WTO...; đảm nhiệm ngày càng nhiều chức trách trong ASEAN, Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác. Những kết quả, thành tựu đó đã đem lại cho đất nước môi trường quốc tế hòa bình, hữu nghị và các điều kiện thuận lợi kết hợp với các nguồn lực nội sinh trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nên những thành tựu chung của công cuộc đổi mới.

Năm là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp; làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ; đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa; thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút; tăng cường hiệu quả kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, kiên quyết chống chạy chức, chạy quyền; thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các cấp, các ngành; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành; đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.

Cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch thực chất là cuộc đấu tranh giữa ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và ý thức hệ tư bản chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp và ngày càng diễn ra quyết liệt. Trên mặt trận này, dự báo trong thời gian tới sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự phát triển bùng nổ của internet, mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động ngày càng có những chiêu thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới của đất nước. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh tư tưởng trong giai đoạn hiện nay cần nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về công tác bảo vệ an ninh tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò tham mưu của cơ quan các cấp đối với công tác đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch; nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường "sức đề kháng" cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Với những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam đã giành được từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay có thể khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn, là đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, với nguyện vọng của nhân dân ta. Những mục tiêu phát triển đất nước do Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đưa ra có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn; việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu đó là những nấc thang đưa dân tộc ta đến với chủ nghĩa xã hội, cho nên mọi quan điểm coi nhẹ, xuyên tạc những mục tiêu đó đều là những quan điểm sai trái, phục vụ cho mục đích hướng lái, thực hiện "tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ" của các thế lực thù địch./.

Đại tá, TS Nguyễn Như Lôi

Phó Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân

 


 

 

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 25.

[2]Sđd, tr. 326.

[4] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/mung-nam-moi-2021-mung-dai-hoi-xiii-cua-dang-ta-.

[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 10, tr. 201.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết