Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Rào cản trong thể chế ảnh hưởng tới sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong phát triển bền vững đất nước ​

Ngày phát hành: 08/10/2018 Lượt xem 17473

 

 Gần đây, ở nước ta thuật ngữ “thể chế” được nói đến, được dùng nhiều hơn khi cuốn sách “Vì sao các nước thất bại ?” được dịch ra tiếng Việt, nhất là sau khi chúng ta chủ trương đẩy mạnh cải cách thể chế và xuất hiện những phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước[1]. Tuy nhiên, nội hàm của thuật ngữ đó được nhấn nhiều vào khía cạnh kinh tế và xã hội, ít được chú trọng về khía cạnh văn hóa. Một, hai năm gần đây khía cạnh này mới được bắt đầu chú ý. Trên thế giới các học giả như Thomas Hobbes, David Hume, W.N. Hohfeld, Thorstein Veblen, Douglass C. North, v.v… , ở nước ta cũng có một vài tác giả, đã bàn khá nhiều về thể chế, nhưng chưa có sự thống nhất những nội dung chính trong thuật ngữ thể chế.

Những nội dung căn bản trong nội hàm của thuật ngữ thế chế, ít nhất bao gồm: các quy tắc, quy định, quy ước, có thể dưới hình thức pháp quy chính thức, có thể phi chính thức, làm khung khổ cho các quan hệ và hành động của con người, các chế tài duy trì và củng cố khung khổ ấy, cơ chế và các tổ chức cấu thành để thực hiện các quy tắc, quy định, quy ước nói trên. Các lĩnh vực hoạt động khác nhau thì tương ứng có những thể chế xác định: thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, thể chế chính trị,... Thể chế luôn có sự thay đổi, nhưng lại có sự ổn định tương đối. Nó có thể là tác nhân thúc đẩy, định hướng, có thể là rào cản, kìm hãm, ngăn trở, làm lệch lạc, phá hoại các hoạt động của con người, của kinh tế, văn hóa, xã hội,… Khi thể chế tạo động lực cho sự phát triển tiến bộ của lĩnh vực mà nó làm khung khổ cho các hoạt động và quan hệ của con người thì nó là tiến bộ. Khi nó cản trở, kìm hãm, xô lệch, ngăn trở các hoạt động và quan hệ của con người thì nó là rào cản. Tạo dựng, không ngừng hoàn thiện thể chế để nó luôn là động lực đối với sự phát triển tiến bộ của con người, cộng đồng, xã hội, luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác lãnh đạo, quản lý. Hoàn thiện, cải cách thể chế là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển. Xác định chính xác ở từng giai đoạn những rào cản từ các thể chế khác nhau đối với sư phát triển để có giải pháp tháo dỡ một cách thích hợp là một nhiệm vụ rất then chôt của nghệ thuật lãnh đạo, quản lý từ cấp vĩ mô đến vi mô.

Các loại thể chế có quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi lĩnh vực chịu sự ràng buộc chính vào một loại thể chế xác định; Nhưng đồng thời, cũng phụ thuộc nhiều vào các thể chế khác ràng buộc chủ yếu ở những lĩnh vực khác. Thể chế văn hóa bao hàm trong nó nhiều nội dung, nhiều tiểu thể chế, chi phối lĩnh vực hoạt động văn hóa của con người, nhưng cũng chi phối cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội,…  Ngược lại sự phát triển văn hóa, con người cũng chịu sự ràng buộc của các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế,… Chính vì vậy, để xác định được các rào cản thể chế đối với sự phát triển văn hóa, con người không thể chỉ xem xét các thể chế văn hóa mà thôi, dù đó vẫn luôn là lĩnh vực chính, quan trọng và then chốt nhất. Thể chế có các tầng, bậc khác nhau, do vậy có những vai trò cụ thể khác nhau. Ở những giai đoạn phát triển khác nhau thể chế đã định hình lại có những ảnh hưởng không như nhau đến quan hệ và hoạt động của con người. Nhưng đều là công cụ quan trọng để điều chỉnh các quan hệ và hành vi, hoạt động, thậm chí để xoá bỏ thể chế cũ, xác lập và hoàn thiện thể chế mới, và có thể là động lực cho sự phát triển, nếu đó là thể chế tiến bộ, cản trở hoặc xô lệch các quan hệ và hoạt động, nếu đó là thể chế lạc hậu. Chỉ ra và có động thái thích hợp với các thể chế động lực và các thể chế rào cản ở từng giai đoạn phát triển, luôn là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.

Nói đến phát triển bền vững của quốc gia, không thể chỉ nói đến 3 trụ cột cơ bản là kinh tế, xã hội và môi trường như trước đây, mà phải nói đến 5 trụ cột cơ bản là: kinh tế, văn hóa, xã hội, con người và môi trường. Những nội dung văn hóa và cách tiếp cận văn hóa đã được đưa vào quan điểm phát triển bền vững, trong khoảng một thập kỷ gần đây, đã làm phong phú thêm quan điểm phát triển bền vững. Văn hóa với cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp đã trở thành một trong những yếu tố cấu thành không thể thiếu của quan điểm phát triển bền vững hiện đại. Phát triển văn hoá nói chung, trong đó có thể chế văn hóa là một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu của phát triển bền vững.

Khái niệm văn hóa gồm nghĩa rộng và nghĩa hẹp, đều có nội hàm rộng, đồng thời với cả hai nghĩa đó hiện vẫn tồn tại rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến cả đời sống vật chất và tinh thần của con người. Dù xuất phát từ nguồn gốc nào, là “văn trị”, “giáo hóa” trong Hán văn, hay “giữ gìn”, “chăm sóc”, “tạo dựng”, “vun trồng”, “cầu cúng” trong ngôn ngữ phương Tây, thì nội dung của khái niệm ấy ngày nay đã không còn nguyên nghĩa ban đầu. Trong đời sống hàng ngày văn hóa thường được hiểu đơn giản là  văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Người ta cũng còn hiểu văn hóa là cách sống, lối sống bao gồm từ phong cách ẩm thực, trang phục, cách cư xử, niềm tin, tri thức được tiếp nhận, trình độ học vấn... Vì thế trong đời sống thường ngày mới có cái gọi là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Khái niệm văn hóa còn được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả mọi thứ do con người tạo ra, cấu thành những bộ phận trong đời sống con người và xã hội. Văn hóa bao gồm không chỉ những sản phẩm vật chất mà cả những sản phẩm tinh thần. Nó được “di truyền xã hội” cho các thế hệ và là “định hướng” khung khổ cho mọi hành vi và hoạt động của con người và xã hội nói chung[2].

Là sản phẩm của loài người, được tạo ra và phát triển trong tiến trình lịch sử, thể hiện quan hệ qua lại giữa con người với nhau và với cả tự nhiên lẫn xã hội, văn hóa tham gia mạnh mẽ vào việc “tạo dựng” con người, duy trì trật tự và sự bền vững và góp phần “quy định” sự phát triển xã hội trong mọi thời kỳ lịch sử. Văn hóa gắn liền với con người, không thể tách rời nhau, là sản phẩm của nhau, tương tác với nhau để tồn tại và phát triển. Trong quan điểm về phát triển bền vững đất nước phải luôn bao hàm cả nội dung phát triển bền vững văn hóa và phát triển bền vững con người[3]. Điều này cần được nhấn mạnh và quán triệt sâu sắc trong bất cứ cách tiếp cận nào về phát triển bền vững.

Sự vận động và phát triển của văn hóa và con người góp phần tạo nên truyền thống, cả hai sự vận động đó là nội dung và là cốt lõi của truyền thống. Các nội dung cụ thể của truyền thống, thường được hiểu là những yếu tố xã hội và văn hoá, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, lễ nghi... và được duy trì trong các tầng lớp xã hội trong một thời gian dài và luôn được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống xấu có tác dụng duy trì chế độ xã hội và nền văn hoá lỗi thời. Truyền thống tốt đẹp (trong lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong quan hệ giữa người với người...) góp phần tích cực xây dựng xã hội mới, con người mới. Tuy nhiên, sự đối lập nói trên là tương đối. Trong quá trình phát triển của lịch sử, những truyền thống cũ, không phù hợp với tình hình mới, mất dần, một số thay hình đổi dạng, những yếu tố mới nảy sinh và dần dần trở thành truyền thống. Tính bền vững của truyền thống cũng là tương đối. Dù sao nó cũng là bộ phận ổn định nhất của văn hoá và con người, làm cho văn hoá và con người luôn có tính kế thừa[4]. Từ góc độ thể chế thì truyền thống văn hóa cũng là một tiểu thể chế trong thể chế văn hóa rộng lớn hơn, nó do quá khứ xác lập, được hình thành trên cơ sở các nội dung, các yếu tố của nền văn hóa đã hình thành, trong đó có cả các yêu tố cũ, lạc hậu lẫn những yếu tố tích cực, giá trị. Đương nhiên, các yếu tố cũ, lạc hậu trong truyền thống, một mặt, do thói quen, sức ỳ, do tính độc lập tương đối của chúng, mặt khác, được một số chủ thể hoạt động, có lợi ích riêng, tiếp tục duy trì, tạo nên thể chế riêng, là rào cản đối với sự phát triển của con người và văn hóa. Hơn thế nữa, thể chế rào cản này thường được kết hợp với các thể chế khác trong các lĩnh vực khác để củng cố, duy trì sự tồn tại của mình vững chắc hơn, lâu dài hơn và gây ảnh hưởng mạnh hơn, do vậy, cũng không thể dễ dàng xóa bỏ nó.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay phát triển văn hóa cũng trở thành một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Văn hóa và truyền thống đóng vai trò rất to lớn, thậm chí trong những điều kiện nhất định, đóng vai trò quyết định sự phát triển nói chung và phát triển bền vững nói riêng. Thực tiễn Việt Nam trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua cho thấy nếu không phát triển văn hóa, xã hội sẽ không thể đạt tới phát triển bền vững thực sự và sớm hoặc muộn, nhanh hoặc chậm sẽ phải trả giá cho sự thiên lệch trong phát triển. Có thể đặt phát triển văn hóa trong phát triển xã hội, xem nó là một trong nhiều nội dung của phát triển xã hội. Nhưng dù đặt trong hay đặt ngoài phát triển xã hội như một yếu tố độc lập để nhấn mạnh vai trò của nó thì phát triển văn hóa phải luôn là một yếu tố cấu thành, một nội dung đăc biệt của phát triển bền vững. Tương ứng, thể chế phát triển văn hóa là một bộ phận cấu thành của thể chế phát triển quốc gia, có ảnh hưởng lớn đến các lĩnh vực khác, và qua đó gây ảnh hưởng đến tốc độ, định hướng, quy mô, chất lượng phát triển của các lĩnh vực đó.

Phát triển văn hóa là tất yếu song hành và là cấu thành của phát triển bền vững. Nhưng không chỉ giản đơn là phát triển văn hóa dưới những phương thức bất kỳ nào đó, mà phải đảm bảo phát triển văn hóa bền vững thì sự phát triển văn hóa mới đóng góp hữu hiệu cho phát triển bền vững. Điều này có thể nhìn nhận dứới các góc độ khác nhau mà không thể nói cái nào quan trọng hơn cái nào. Để phát triển văn hóa và con người bền vững lại đòi hỏi phải có thể chế tương ứng tốt, tích cực, tạo động lực mạnh và hiệu qủa. Vai trò của các chủ thể xã hội từ cá nhân đến cộng đồng, các tổ chức xã hội, nhà nước, trong việc tạo dựng, hoàn thiện các thể chế mới và xóa bỏ các thể chế rào cản là rất to lớn. Chủ thể xã hội nhà nước là chủ thể lớn nhất càng có vai trò to lớn so với các chủ thể xã hội khác trong việc tạo dựng, hoàn thiện thể chế mới, xóa bỏ các thể chế rào cản. Thể chế do chủ thể nhà nước tạo ra chủ yếu là dưới hình thức pháp quy, khác với thể chế do các loại chủ thể khác tạo dựng, thường dưới hình thức quy ước, thỏa thuận phi văn bản, vì thế không dễ dàng nhận diện và xóa bỏ khi nó trở thành rào cản.

Quá trình đổi mới đất nước hơn 30 năm qua trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã làm tăng tác động của biến đổi kinh tế và thể chế kinh tế lên đời sống văn hóa và thể chế văn hóa của xã hội, khiến cho sức mạnh của cả ba yếu tổ ấy được cộng hưởng thêm, làm cho đời sống văn hóa càng về cuối càng thêm biến động dữ dội và sâu rộng. Văn hóa dường như đang ngày một “chao đảo” mạnh mẽ hơn, xung đột giữa các giá trị ngày một nhiều hơn, sâu sắc hơn, có những truyền thống đang muốn sống dai dẳng hơn, lại có truyền thống đang muốn sống lại như thời hoàng kim của nó; lại có cả những yếu tố mới hình thành đang khó nhọc, vất vả để cắm rễ, đâm cành,… Hàng loạt những biểu hiện “bất thường”, thậm chí là “khủng hoảng” của đời sống văn hóa hiện nay cho thấy dường như sự phát triển của đời sống văn hóa nước ta đang thiếu bền vững. “Khủng hoảng văn hóa” dường như đang là một xu thế hiện thực trong xã hội Việt Nam hiện nay, dù điều đó chưa được thừa nhận chính thức trên các diễn đàn thông tin đại chúng hay trên các diễn đàn lý luận của các học giả.

Khủng hoảng văn hóa bao hàm trong nó cả khủng hoảng về phương diện thể chế phát triển văn hóa và con người. Các giá trị văn hóa tạo thành thể chế tích cực, xung đột với thể chế truyền thống tiêu cực, đang là rào cản cho sự phát triển tiếp theo của văn hóa và con người.

Thực tế cho thấy, việc quản lý và định hướng phát triển văn hóa của chúng ta trong cả thời gian dài vừa qua có nhiều vấn đề bất cập đang tích tụ nhưng không được chú ý tháo gỡ, sửa đổi thường xuyên, kịp thời làm cho khủng khoảng thêm nặng phần tất yếu. Tư tưởng tập trung cho tăng trưởng kinh tế, chú ý thiên lệch về các chỉ số về lượng tăng trưởng mà xem nhẹ chất tăng trưởng trong cả thời kỳ dài vừa qua đã và đang gây ra ngày một nhiều hơn những hệ quả không mong muốn và không lường trước được. Khía cạnh văn hóa, sinh thái, xã hội, con người của sự phát triển kinh tế nói chung bị xem là thứ yếu so với tăng trưởng. Tư tưởng tăng trưởng luận đã trở thành tư tưởng chủ đạo đối với sự phát triển đất nước trong thời gian qua là một thực tế, nó thấm sâu vào các thiết chế khác nhau ở khắp các lĩnh vực, chứ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế. Cả tư tưởng tăng trưởng luận lẫn các thiết chế ra đời trên cơ sở tư tưởng ấy, hoặc chịu ảnh hưởng của nó, cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn trong giai đoạn tới, bởi nếu không, thì không chỉ sự phát triển bền vững không thể có được, mà cả sự phát triển của văn hóa, con người cũng gặp những trở ngại ngày càng lớn hơn.

Đời sống văn hóa thực sự đang biến động khiến cho cả văn hóa, con người, lẫn xã hội và kinh tế, không thể phát triển bền vững trong cả trung hạn lẫn ngắn hạn và hệ quả là sẽ tiếp tục giảm chất lượng phát triển trong dài hạn. Xung đột giữa thực trạng phát triển văn hóa, con người với thể chế đang có những biểu hiện phức tạp. Khủng hoảng văn hóa đang là một thực tế và chắc chắn sẽ tiếp tục với quy mô, tốc độ, phạm vi và hệ quả ngày một lớn hơn trong giai đoạn sắp tới nếu không có những điều chỉnh nhất định. Nhưng khủng hoảng ở đây không phải là sự suy đồi hay xuống cấp của nền văn hóa Việt Nam như một số người nhận định và thể hiện cách nhìn bi quan, thái độ hoài nghi về khả năng phát triển của nền văn hóa Việt Nam hiện nay. Cơn khủng hoảng của văn hóa Việt Nam thể hiện sự vận động, chuyển đổi, tìm đường hướng phát triển trong bối cảnh mới và sẽ tạo nên bước phát triển có tính đột phá, nhảy vọt trong tương lai gần. Có điều là sự “khủng hoảng ấy” sẽ buộc xã hội phải “trả giá” ở những mức độ khác nhau nếu không thường xuyên và kịp thời giải quyết đúng đắn những vấn đề mà nó đặt ra. Tháo gỡ các rào cản của thể chế là góp phần khắc phục khủng hoảng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của văn hóa, con người.

Sự khủng hoảng văn hóa, trong đó có xung đột thể chế đã và đang thấm vào từng gia đình, từng khối phố, xóm làng, trường học, cơ quan, cộng đồng, từ các vùng quê đến các thành phố, từ tầng lớp cao tuổi đến các thanh, thiếu niên đang trong độ tuổi đi học. Khủng hoảng văn hóa và thể chế phát triển văn hóa, con người, theo nghĩa rộng bao hàm cả tư duy, đạo đức, lối sống, hệ giá trị, giao tiếp, ứng xử, tác phong, v.v… Nói cách khác, khủng hoảng phát triển văn hóa và thiết chế phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay, đã len lỏi vào từng góc phố, ngõ xóm làng quê, vào từng yếu tố, bộ phận, giá trị cụ thể của nền văn hóa. Trong cơn khủng hoảng ấy, sự tạo dựng, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa, con người, việc xác lập hệ giá trị với những giá trị, yếu tố mới, và sàng lọc những yếu tố, giá trị cũ, truyền thống, sự tiếp nhận các yếu tố, các gía trị bên ngoài đang diễn ra ngày một mạnh mẽ và sâu rộng. Khủng hoảng ở đây không đồng nghĩa với sự đổ vỡ, suy đổi, xuống cấp, mặc dầu không thể loại trừ khía cạnh ấy ở những hiện tượng, bộ phận, yếu tố nhất định. Ở góc độ thể chế, đòi hỏi phải thay thế các nội dung, yếu tố, bộ phận lạc hậu, không phù hợp, đang cản trở trở sự phát triển tiến bộ của văn hóa và con người trong thể chế hiện hành và xác lập những nội dung, yếu tố, bộ phận mới, tiến bộ, làm động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa và con người.

Đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, thay đổi thể chế về quản lý hoạt động văn hóa cho thích hợp với bối cảnh mới, đáp ứng những đòi hỏi mới, tiến bộ của xã hội, đang là yêu cầu ngày càng bức thiết của sự phát triển nói chung và phát triển bền vững nói riêng ở nước ta hiện nay, để văn hóa có thể nhanh chóng phát triển và trở thành nền tảng tinh thần và động lực của phát triển bền vững.

Mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường là để phát triển văn hóa và con người. Nếu văn hóa và con người không phát triển bền vững thì không thể có phát triển bền vững xã hội, đất nước nói chung. Thậm chí, khi văn hóa và con người không phát triển bền vững thì xã hội sẽ rối loạn. Văn hóa chính là bệ đỡ hay là bộ giảm xóc cho các biến động kinh tế, chính trị và xã hội khác. Nó là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng cũng là nền tảng xã hội của sự phát triển kinh tế và sự ứng xử của con người với tự nhiên. Để văn hóa và con người phát triển bền vững thì thể chế phát triển văn hóa phải được đổi mới, hoàn thiện liên tục cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với quy luật của phát triển văn hóa và con người, với nhu cầu chính đáng của cá nhân và cộng đồng, với xu thế phát triển tiến bộ của thời đại, với các tiêu chí nhân văn của quốc gia và nhân loại.

Trong giai đoạn chứa đầy những biến động văn hóa hiện nay cần phải thấy cả những cái được gọi là thể chế văn hóa truyền thống do lịch sử truyền lại đang là lực cản kìm hãm, cản trở sự phát triển của văn hóa và của con người. Văn hóa truyền thống nói chung là động lực rất mạnh mẽ của sự phát triển, nhưng cũng có sức nặng ghê gớm, kìm hãm sự “cất cánh” bay lên của dân tộc. Một nền văn hóa thường ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định có nhiều yếu tố tích cực, thích hợp và có vai trò to lớn thúc đẩy sự vận động, phát triển chung của xã hội, của kinh tế, văn hóa, của đời sống tinh thần của các cộng đồng và xã hội và có cả những yếu tố tiêu cực, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của các lĩnh vực, các yếu tố tích cực khác. Việc tạo dựng, hoàn thiện thể chế tạo động lực phát triển văn hóa và con người hiện nay phải tính đến các đặc trưng trên đây. Thể chế phải có khả năng gạn lọc cái cũ, bổ sung cái mới tích cực, tiến bộ, thu nhận tinh hoa văn hóa mọi nơi để làm giàu có thêm, phong phú thêm cho văn hóa nước nhà.

Văn hóa cũng như thể chế không phải là bất biến, cố định, các yếu tố xác định ngày hôm nay là tích cực, nhưng ngày mai lại trở thành lạc hậu, lỗi thời. Thể chế phát triển văn hóa hôm nay là tích cực, tiến bộ, phù hợp với thực tiễn, nhưng ngày mai có thể đã xuất hiện những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, cản trở sự phát triển trong mình nó. Khơi dậy, phát huy những yếu tố tích cực, sàng lọc, loại bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, tạo dựng thể chế mới cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu mới của sự phát triển là đòi hỏi thường xuyên của xã hội đang vươn tới thang bậc phát triển cao hơn. Khi việc đáp ứng đòi hỏi ấy quá yếu hoặc quá thiếu, hay quá chậm kéo dài, thì xung đột thể chế sẽ bắt đầu, khủng hoảng văn hóa sẽ xẩy ra và gây tác động bất ổn cho sự phát triển của chính văn hóa và sau đó là của chính quốc gia, dân tộc.

Khủng hoảng văn hóa nói chung và thể chế văn hóa nói riêng gây ảnh hưởng đến phát triển của kinh tế và xã hội theo cách khác với khủng hoảng trong chính trị. Nếu khủng hoảng trong chính trị nói chung thường có tác động mạnh mẽ, tức thời và lan rộng nhanh chóng, gây hậu quả ngay và sau đó giảm dần ảnh hưởng theo thời gian một cách nhanh chóng, thì khủng hoảng trong thể chế văn hóa và trong văn hóa có tác động thường không ngay tức thời mà có “độ trễ” nhất định. Hơn nữa nó thường tác động lâu dài, khó nhận biết, những hệ lụy to lớn thường chỉ thể hiện sau một giai đoạn nhất định và thường là khó lường trước, mang tính chất chậm rãi, kéo dài và âm ỉ nhưng không kém phần nặng nề và sâu sắc. Vì vậy, giảm thiểu tối đa những hệ lụy xấu đối với sự phát triển nói chung của khủng hoảng văn hóa và thể chế văn hóa, ngăn ngừa khủng hoảng, giải quyết kịp thời những vấn đề của đời sống văn hóa là đảm bảo cho văn hóa phát triển bền vững. Cùng với sự phát triển bền vững của các lĩnh vực khác, sự phát triển bền vững của văn hóa là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển bền vững đất nước nói chung.

Trong xã hội hiện đại xung đột thể chế văn hóa, khủng hoảng văn hóa đang ngày càng trở thành nguyên nhân nổi trội của sự không bền vững, không ổn định của các quốc gia. Đồng thời, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tạo cơ hội và điều kiện cho sự xâm nhập và xung đột giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại nhập cộng hưởng cùng với xung đột của quá khứ và hiện tại, truyền thống và hiện đại khiến cho nguy cơ mất ổn định trong phát triển càng lớn hơn bao giờ hết. Thể chế văn hóa trở thành thước đo sự bất cập trong phát triển văn hóa, nó có thể là bệ đỡ, là công cụ làm suy giảm các xung đột, thúc đẩy việc giải quyết các xung đột và khủng hoảng trong phát triển văn hóa và con người. Tuy nhiên, ngay ở nước ta hiện nay, sự chú ý vào khía cạnh này của vấn đề phát triển văn hóa và bền vững còn quá nhỏ nhoi so với tầm vóc và vị trí, vai trò của vấn đề. Người ta đang mải mê tập trung chú ý vào các nguyên do kinh tế, chính trị và sinh thái mà quên lãng các nguyên do văn hóa của sự mất ổn định trong tiến trình phát triển. Sau kinh tế, chính trị và sinh thái đã đến lúc phải tập trung chú ý nhiều hơn đến sự phát triển văn hóa bền vững và thể chế phát triển văn hóa. Hệ lụy của sự quyên lãng phát triển văn hóa và thể chế văn hóa trong phát triển bền vững tạo ra cho cả văn hóa lẫn kinh tế, chính trị và sinh thái nguy cơ bất ổn thường xuyên trong phát triển cả về ngắn hạn lẫn dài hạn.

Văn hóa không chỉ là bệ giảm xóc, nền tảng tinh thần và động lực của phát triển bền vững, không chỉ là nội dung, tiền đề và điều kiện của phát triển bền vững của xã hội hiện đại mà còn là phương tiện, phương thức để cộng đồng, dân tộc, đất nước có thể tiến nhanh, mạnh, bền vững đến những bậc thang cao hơn của văn minh nhân loại. Khai thác các yếu tố văn hóa một cách hợp lý bằng thể chế phát triển văn hóa phù hợp, tích cực, tiến bộ mới có thể làm chủ được những điều kiện, tiền đề và các tiềm năng nội tại của dân tộc, cộng đồng để phát triển. Thể chế văn hóa phù hợp, tích cực, tiến bộ giúp cho việc sử dụng hợp lý, hài hòa sự phát triển văn hóa và con người, phát triển kinh tế, bảo vệ và cải thiện sinh thái,  tạo nên sự phát triển hài hòa của xã hội, cuộc sống hài hòa của cộng đồng, tạo dựng xã hội văn minh và phát triển toàn diện trên mỗi bước phát triển và trong toàn bộ chặng đường đi tới văn minh, thịnh vượng. Cũng vì vậy, việc phá bỏ các rào cản thể chế văn hóa luôn phải song hành với tạo dụng thể chế văn hóa phù hợp, tích cực, tiến bộ. Đây là hai mặt của một quá trình không thể loại trừ, tách biệt hay bỏ qua mặt nào.

 So với một số nước trong khu vực việc khai thác văn hóa phục vụ phát triển bền vững ở nước ta chưa làm được nhiều và chưa làm được tốt. Lãng phí nguồn lực văn hóa góp phần làm cho chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế, phát triển xã hội bị hạn chế. Nguồn lực văn hóa là bất tận, vô hạn, có thể sử dụng bởi nhiều thế hệ, bởi nhiều chủ thể khác nhau, có thể sử dụng đồng thời ở nhiều địa điểm và do đó, nếu được khai thác hợp lý sẽ tạo nên sức mạnh rất to lớn, rộng khắp, tạo nên những đột phá cho phát triển những vẫn đảm bảo tính bền vững, ổn định của xã hội trong quá trình vận động và phát triển. Muốn vậy phải tạo lập được một thể chế phát triển văn hóa phù hợp, tích cực, tiến bộ, không còn là rào cản đối với phát triển văn hóa và các lĩnh vực khác.

Cần phải nhấn mạnh thêm rằng, một dân tộc mất độc lập, tự do thì vẫn có hy vọng giành lại được hoặc sớm hoặc muộn, nhưng nếu văn hóa dân tộc đó bị đổ vỡ, bị đánh mất, bị mai một và bị hoà tan thì dân tộc đó sẽ mất tất cả, kể cả quyền tồn tại với tính cách là một dân tộc. Thiếu mất nội dung phát triển văn hóa thì tự nó sự tăng trưởng và phát triển kinh tế không đưa đất nước và dân tộc phát triển mà chỉ tạo ra nhiều thêm những phương tiện phá hoại sự phát triển và sự tồn vong của cộng đồng dân tộc và đất nước. Thiết chế văn hóa phù hợp, tích cực, tiến bộ sẽ không còn là rào cản, ngăn trở phát triển văn hóa mà sẽ giúp cho việc thúc đẩy phát triển văn hóa và các lĩnh vực khác một cách đồng bộ, hài hoà và bền vững./.

 

PGS.TSKH Lương Đình Hải

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con người

                                                                  



Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết