1. Sự thành bại của các quốc gia và vấn đề của Việt Nam
Khát vọng phát triển xưa nay luôn là tâm thế thường trực của tất cả các quốc gia và của hầu hết các chính phủ. Nhưng ở mỗi thời đại lại thường chỉ có một số ít quốc gia đạt tới thịnh vượng. Và ngay cả khi đã đạt tới thịnh vượng, cũng không nhiều quốc gia giữ được thịnh vượng bền lâu. Phần lớn các quốc gia lẫy lừng trong quá khứ ngày nay đều đã lùi lại nhường chỗ cho các quốc gia gia khác vượt lên. Đế quốc Ba Tư và Hy Lạp cổ đại, đế quốc La Mã và đế quốc Nguyên Mông, nền văn minh Maya và Pompeii, Chủ nghĩa tư bản Anh và Pháp cận hiện đại, kể cả Liên bang Xô viết trước đây… là những trường hợp như vậy.
Sự thành công hay thất bại của các quốc gia, chắc chắn phải là kết quả những quy luật thép của sự phát triển. Những quy luật đó cùng với các bài học kinh nghiệm tương ứng của các quốc gia điển hình, cho đến hôm nay đã được lý luận đúc kết khá nhiều. Tuy thế, việc nắm được các quy luật và sử dụng được các bài học kinh nghiệm hóa ra không dễ. Vẫn có các quốc gia tiếp tục thất bại, mặc dù điều kiện khách quan không kém thuận lợi và thái độ cầu thị của các quốc gia này không thể nói là không đủ sâu sắc.
Tại sao lại có các quốc gia thất bại và tại sao chỉ có một số ít các quốc gia thành công? Đâu là những nhân tố đích thực quyết định sự thành bại: địa lý và khí hậu hay văn hóa và con người, tri thức và khoa học hay kinh nghiệm và truyền thống, kinh tế và trình độ sản xuất hay chế độ xã hội và thể chế? Đó là những câu hỏi gay gắt đặt ra đối với các chính phủ, các chính khách và các nhà nghiên cứu, nhất là đối với những người có trách nhiệm và tâm huyết.
Những năm gần đây, từ khi kinh tế học thể chế chế (Institutional Economic) gắn liền với tên tuổi của Daron Acemoglu và James A. Robinson trở thành thời thượng, thì vai trò của thể chế - trực tiếp là thể chế kinh tế và đằng sau nó là thể chế chính trị - được coi là nhân tố cơ bản và chủ yếu quyết định sự thịnh vượng của các quốc gia.
Lý thuyết kinh tế học thể chế khẳng định rằng, xã hội loài người trên thực tế, đã và đang tồn tại chỉ hai loại thể chế chính trị và kinh tế chủ yếu quy định sự phát triển của các xã hội, sự thành bại của các quốc gia. Đó là Thể chế chiếm đoạt (“Extractive Institutions”, còn được dịch là “bóc lột” hay “khai thác”), và Thể chế dung hợp (“Inclusive Institutions”, còn được dịch là “dung hòa” hay “bao trùm”). Các quốc gia có cơ may thành công đều là các quốc gia có nền kinh tế và toàn bộ đời sống xã hội vận hành theo thể chế dung hợp. Còn các nước nghèo đều là các nước bị trói buộc (có thể là ngẫu nhiên, không chủ ý) trong thể chế được gọi là chiếm đoạt, bóc lột. Các nhân tố khác như địa lý, tự nhiên, nguồn lực văn hóa, con người… đương nhiên rất quan trọng, nhưng (theo lý thuyết này là) không quyết định[1].
Trong tác phẩm nổi tiếng, xuất bản lần đầu năm 2012 chứa đựng những tư tưởng chủ yếu giải thích Tại sao các quốc gia thất bại, Acemoglu và Robinson lý giải, tất cả các quốc gia thất bại đều có nguyên nhân là nền kinh tế của họ và các hoạt động xã hội thuộc nền kinh tế đó bị chi phối, bị quy định, và trong nhiều trường hợp bị quyết định bởi thể chế kinh tế chiếm đoạt. Cơ chế chủ yếu vận hành ở thể chế này là thu nhập từ nhóm xã hội này chuyển qua nhóm xã hội khác, từ một số nhóm trong xã hội mang về cho các nhóm khác, và cuối cùng những nhóm nào nào mạnh hơn, có vị thế kinh tế và xã hội lớn hơn sẽ có sức hút lớn hơn. Sự Khai thác thu nhập từ nhóm khác, cộng đồng khác, tầng lớp khác, tập đoàn khác… là quy luật và là một cơ chế được xã hội mặc nhiên thừa nhận. Khi các thể chế được hình thành để những người có quyền lực chính trị và kinh tế có quyền “khai thác” lợi ích từ những người khác, thì đa số các nhóm xã hội sẽ bị tước đoạt và động lực để tạo ra của cải là giấu diếm thu nhập và tài sản. Điều này hạn chế trình độ của toàn bộ nền kinh tế[2].
Theo Acemoglu và Robinson, các thể chế chính trị và kinh tế dung hợp, luôn có xu hướng thực thi các quyền sở hữu, tạo lập tài sản hợp lý, tạo ra một “sân chơi bình đẳng”. Do bản chất của nó, thể chế này luôn khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới và các kỹ năng có ích cho tăng trưởng kinh tế. Sự phân bổ quyền lực chính trị rộng rãi theo cách đa nguyên cho phép thể chế dung hợp đạt tới một mức độ hợp lý của sự tập trung hóa chính trị, thiết lập bộ máy pháp luật mạnh và trật tự ổn định, nền tảng của các quyền tài sản an toàn, và một nền kinh tế thị trường dung hợp.
Các thể chế kinh tế dung hợp khuyến khích sở hữu tư nhân, tạo ra ưu đãi cho người có sở hữu và sử dụng tài sản sở hữu để đạt được thành công trong dài hạn. Một xã hội có phần lớn cư dân có sở hữu tài sản đủ mạnh, sẽ cho phép toàn bộ hệ thống đạt tới hiệu quả gần như tối đa cả về nguồn nhân lực và cả về tài sản xã hội. Thể chế dung hợp cho phép và khuyến khích sự tham gia của đông đảo người dân với kỹ năng của họ vào sản xuất xã hội, vào guồng máy kinh tế, vào sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia. Các thể chế kinh tế dung hợp tạo ra các thị trường dung hợp. Điều này cho phép dân chúng tự do theo đuổi các thiên hướng nghề nghiệp theo cách phù hợp nhất với tài năng của họ, khuyến khích tính tự nguyện của các thành viên xã hội. Ngoài ra, “các thể chế dung hợp cũng lát đường cho hai động cơ của thịnh vượng: công nghệ và giáo dục. Tăng trưởng kinh tế bền vững gần như luôn luôn đi kèm với cải tiến công nghệ… gắn bó mật thiết với công nghệ là giáo dục, kỹ năng, tài năng và bí quyết của lực lượng lao động được hấp thụ ở nhà trường, ở nhà và trong công việc”[3].
Ở Việt Nam, trong tâm thế kỳ vọng vào một sự phát triển bứt phá nhờ cải cách thể chế, đa số các học giả tán thành quan điểm này. Tại nhiều diễn đàn và ngay tại Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc phải cải cách thể chế đã được nêu như một yêu cầu đặc biệt cấp thiết.
Mặc dù thể chế kinh tế và thể chế chính trị của Việt Nam có vẻ khác nhiều so với các nước phương Tây cũng như các nước Đông Á, Đông Nam Á, nhưng đối với sự phát triển xã hội, sự thành bại của quốc gia, thì lý thuyết thể chế (với các thành tố, các nguyên tắc, quy luật và cơ chế vận hành của nó), về đại thể vẫn có thể học hỏi và vận dụng được.
Khái niệm “Thể chế”, Báo cáo Việt Nam 2035 định nghĩa, “là những “luật chơi” chính thức và phi chính thức ràng buộc các tương tác trong xã hội, hỗ trợ tăng trưởng và phát triển kinh tế trong dài hạn” [4]. Đây là khái niệm được nhiều nhà kinh tế học Việt Nam và thế giới, đặc biệt là các chuyên gia WB tán thành. Thực ra, khái niệm này cũng là sự tiếp nối Douglass North, GS. kinh tế lượng Đại học Washington, giải Nobel kinh tế 1993, người có nhiều cuốn sách về thể chế kinh tế. Trong cuốn sách của mình (Institutional Competition, 1994) ông định nghĩa “thể chế là những ràng buộc do con người tạo ra để định hướng và điều chỉnh các tương tác của mình.” Thể chế là “những luật chơi trong xã hội” để điều chỉnh những tương tác trong hoạt động kinh tế và kinh doanh, bao gồm : (1) Những quy tắc chính thức (hiến pháp, luật, và các quy định do Nhà nước hoặc các tổ chức được nhà nước hậu thuẫn ban hành); (2) Những rành buộc phi chính thức (chuẩn mực hành vi xã hội, quy tắc ứng xử); (3) Cơ chế thực thi[5].
Với quan niệm về thể chế như vậy, thực ra triết lý của kinh tế học thể chế cũng khá đơn giản: tất cả mọi biểu hiện phong phú và phức tạp của sự phát triển xã hội, trên thực tế đều chỉ thuộc về một trong hai thể chế kinh tế (và được quy định bởi thể chế chính trị) là thể chế khai thác, bóc lột và thể chế dung hợp. Khái niệm thể chế lại không đồng nhất với khái niệm chế độ chính trị nên diện mạo của các xã hội cũng rất tương đối: thể chế độc đoán như Hàn Quốc những năm 60-70 lại vẫn thuộc thể chế dung hợp, còn sự phát triển khá ngoạn mục như Liên Xô những năm 30 lại vẫn không vượt ra khỏi khuôn khổ của thể chế bóc lột[6].
Bài học vĩ mô nhất từ sự thành công và thất bại của các quốc gia đã được đúc kết và cũng nhiều lần đã được khẳng định là: Không nhất thiết phải giàu tài nguyên, không nhất thiết phải có quá khứ tư bản chủ nghĩa, ngày nay, chỉ cần vài ba chục năm, các nước đi sau hoàn toàn có thể công nghiệp hóa thành công, nếu tránh được những sai lầm về mặt thể chế.
Với Việt Nam, chính D. Acemoglu và J. A. Robinson đã cho rằng, sở dĩ từ những năm 1980 đến nay Việt Nam thoát nghèo và tăng trưởng khá nhanh, trước hết là do nền kinh tế đã tự nó chuyển đổi từ mô hình thể chế Chiếm đoạt sang mô hình Dung hợp. Bước chuyển này tất nhiên có sự lựa chọn của con người, nhưng nguyên nhân thúc đẩy là sự quy định của những nhân tố khách quan, trong điều kiện mới của nền kinh tế thế giới ở thời đại toàn cầu hóa. Muốn đạt được đỉnh cao của thịnh vượng và thành công, Việt Nam cần phải tiếp tục đoạn tuyệt với thể chế kinh tế chiếm đoạt, bắt nguồn từ các thể chế chính trị chiếm đoạt, để phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế dung hợp, trong đó nhà nước phải ngày càng mạnh và ngày càng minh bạch với trách nhiệm giải trình; quyền lực mà trước hết là quyền lực đối với tài nguyên được phân phối một cách rộng rãi, các tiềm năng của đất nước được huy động và được giải phóng[7].
Vấn đề là ở chỗ, cơ hội và tiềm năng để Việt Nam trở thành một quốc gia thịnh vượng “sánh vai với các cường quốc năm châu” trong nhiều thập niên gần đây đều không ở mức quá thiếu hụt. Ý chí phát triển của lãnh đạo và dân chúng cũng được đánh giá là rất tích cực. Trí tuệ và các sách lược phát triển, về lý thuyết cũng không kém phần thực tế và khôn ngoan. Tuy nhiên sự thành công để đạt tới trình độ “thịnh vượng” hay “cất cánh hóa rồng” hiện vẫn còn nằm ngoài tầm với.
Trong so sánh với các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á lân cận như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan hay Thái Lan… sự tụt lại phía sau của Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX đã trở thành nỗi ám ảnh thôi thúc khát vọng phát triển, nhất là đối với các nhà lãnh đạo và những người có trách nhiệm ở Việt Nam. Việc đúc rút kinh nghiệm của các quốc gia đi trước gần như liên tục được nghiên cứu nhằm tìm kiếm các giải pháp cả ở phạm vi vĩ mô và vi mô. Tuy vậy, có quá nhiều lý do khách quan và chủ quan khiến tham vọng đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp cuối cùng cũng đã bị bỏ lỡ.
Hiện thời, tiềm năng được đánh giá là vẫn không đến nỗi thiếu hụt. Triển vọng “hóa rồng” cũng vẫn được xem là còn có cơ hội, nhất là sau sự phát triển khá nhanh của nền kinh tế hai năm gần đây. Khả năng thành công trong một tương lai gần vẫn được giới phân tích quốc tế coi là khả năng tương đối thực tế của Việt Nam.
Và do vậy, khát vọng vươn tới thịnh vượng và thành công vẫn là tâm thức bắt gặp khá phổ biến cả trong đường lối vĩ mô của Đảng và Chính phủ cũng như trong kế sách chiến lược của các doanh nghiệp
2. Chỉ số thành bại của các quốc gia (FSI)
Lý thuyết thể chế phát triển từ đầu những năm 2000 đã được thiết kế dành cho nghiên cứu định lượng. Ý tưởng chính của các chuyên gia thiết kế là, bài học thành công thì có thể khó học hỏi, nhưng bài học thất bại thì về nguyên tắc là có thể tránh được. Muốn thành công, trước hết, các quốc gia đi sau cần phải học được những bài học về sự thất bại. Dựa trên các quan điểm của lý thuyết thể chế, Chỉ số thành bại của các quốc gia (Fragile States Index, FSI) được Quỹ Vì Hòa bình, thuộc tạp chí Foreign Policy, Mỹ công bố từ năm 2005. Kể từ đó, báo cáo FSI hằng năm được đón nhận nồng nhiệt[8]. Cũng có những ý kiến phê phán, nhưng đa số các học giả và các quốc gia, kể cả các quốc gia bị rơi vào thứ hạng tiêu cực vẫn thừa nhận phương pháp đánh giá quốc gia thất bại là tương đối khách quan; chí ít đó cũng là những căn cứ để mỗi quốc gia tự nhìn nhận mình.
Chỉ số thành bại của các quốc gia tổng hợp 90.000 nguồn dữ liệu theo 3 lĩnh vực xã hội, kinh tế và chính trị của gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số FSI gồm 12 chỉ báo (Indicator) để đánh giá 3 lĩnh vực theo nguồn dữ liệu thu thập được. 12 chỉ báo đo sự thành bại của các quốc gia gồm: 4 chỉ báo xã hội: (1) Áp lực dân số (Demographic pressures); (2) Người tị nạn và nguy cơ nhân đạo (Refugees and IDPs); (3) Các nhóm thù địch xã hội (Group grievance, kể cả cuồng tín - paranoia); (4) Di dân trốn hoàn cảnh sống trong nước (Human flight). 2 chỉ báo kinh tế: (1) Chênh lệch về phát triển theo các nhóm dân (Uneven development); (2) Nghèo và suy thoái kinh tế (Poverty and economic decline). 6 chỉ báo chính trị: (1) Tính chính đáng nhà nước, kể cả tham nhũng của chính quyền (Legitimacy of the state); (2) Dịch vụ công (Public services); (3) Quyền con người, bao gồm cả sự yếu kém của luật pháp, độc đoán trong chấp hành luật pháp, vi phạm nhân quyền (Human rights); (4) Bộ máy an ninh, kể cả tình trạng sự vận hành các cơ quan an ninh “nhà nước bên trong nhà nước” (Security apparatus); (5) Tình trạng bỏ ra nước ngoài của giới thượng lưu, kể cả chảy máu chất xám (Factionalized elites); (6) Mức độ can thiệp từ bên ngoài (External intervention).
Tổng điểm của 12 chỉ báo này là tổng số điểm đánh giá mức độ thành bại, tức chỉ số FSI của quốc gia được đo đạc. Căn cứ vào tổng số điểm, các quốc gia được chia thành 4 loại: (1) Báo động (Alert): gồm “Báo động” (Alert, có điểm số FSI từ 90 đên 100 điểm), “Báo động cao” (High Alert, từ 100 đến 110 điểm) và “Báo động cực cao” (Very High Alert, có điểm số FSI từ 110 trở lên). (2) Cảnh báo (Warning): gồm “cảnh báo” (Warning), có điểm số từ 60 đến 70 điểm), “Cảnh báo cao” (Elevated Warning, từ 70 đến 80 điểm) và “Cảnh báo rất cao” (High Warning, từ 80 đến 90 điểm). (3) Ổn định (Moderate/Stable): gồm “Rất ổn định” (Very stable, từ 30 đến 40 điểm), “Ổn định cao” (More stable, từ 40 đến 50 điểm) và “Ổn định” (Stable, có điểm số 50 đến 60 điểm). (4) Bền vững (Sustainable): gồm “Rất bền vững” (Very sustainable, dưới 20 điểm) và “Bền vững” (Sustainable, dưới 30 điểm), là các nước ít vấn đề nhất, thành công nhất. Báo cáo FSI hàng năm cũng quy ước, 60 quốc gia có tổng số điểm FSI cao nhất bị coi là nhóm quốc gia thất bại. Gần đây, các chuyên gia còn chú ý hơn đến 20 quốc gia có số điểm cao nhất, tức là 20 quốc gia có chỉ số FSI tiêu cực nhất, ở vào tình trạng nguy hiểm nhất, để cảnh báo các vấn đề của các chính phủ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, từ năm 2005 đến nay, đứng đầu các quốc gia có chỉ số thất bại cao nhất (tiêu cực nhất) luôn thuộc về các nước châu Phi. Các quốc gia thành công nhất vẫn thuộc về châu Âu, Bắc Mỹ, Australia rồi đến châu Á, Nam Mỹ và Trung Đông. Các quốc gia FSI tiêu cực đều ít nhiều vướng vào các chỉ số như tham nhũng nặng, các hành vi phạm tội phổ biến, không có khả năng thu thuế hoặc ít được dân chúng ủng hộ. Một số nước có số lượng đáng kể người buộc phải bỏ quê hương, nền kinh tế suy thoái, sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, thậm chí có cả sự hãm hại dân chúng một cách có tổ chức hoặc phân biệt đối xử nghiêm trọng. Một vài nước có sức ép dân số, người tài bỏ ra nước ngoài, môi trường sống bị phá hoại nặng.
Trung Quốc năm 2009 bị xếp thứ 57, thuộc vào loại quốc gia thất bại, tức là thuộc nhóm 60 nước có chỉ số FSI cao nhất nhưng năm 2010 đã tiến 5 bậc về phía các chỉ số tích cực hơn. Năm 2018 Trung Quốc tiến về phía thành công 29 bậc, xếp thứ 89/178 nước, với chỉ số 72,4 điểm FSI, không còn là nước nằm trong số 60 nước thất bại. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn bị đánh giá là quốc gia ở mức “Cảnh báo cao”, trong khi đó Việt Nam với chỉ số FSI 68,4 điểm xếp thứ 71(107)/178 nước, thuộc diện “Cảnh báo”.
Năm 2011, 20 quốc gia thất bại nhất được gọi bằng cái tên khá ấn tượng “Những tấm bưu thiếp gửi từ địa ngục” (Postcard from Hell[9]); gồm Somalia, Chad, Sudan, Congo, Haiti, Zimbabwe, Afghanistan, Trung Phi, Iraq, Cote d'Ivoire, Guinea, Pakistan, Yemen, Nigeria, Niger, Kenya, Burundi, Myanmar, Guinea Bissau, Ethiopia. Điều này phản ánh một năm đầy biến động và cảnh báo nguy cơ bất ổn toàn cầu.
Năm 2018, trong số 32 nước thuộc loại “báo động” có 6 nước thuộc loại “báo động cực cao” (Very High Alert): Congo (D.R. 110,7 điểm FSI), Trung Phi (111,1 điểm), Syria (111,4 điểm), Yemen (112,7 điểm), Somalia (113,2 điểm) và cao nhất Nam Sudan 113.4 điểm FSI. Dĩ nhiên đây là những nước được coi là “Thất bại”.
Quốc gia thành công nhất 2018 là Phần Lan, với tổng FSI là 17,8 điểm, rồi đến Na Uy (19,2), Thụy Sỹ (19,2) và Đan Mạch (19,8).
Cũng năm 2018, 12 quốc gia có chỉ số FSI đạt tới mức “bền vững” là Iceland, Ireland, Australia, Luxembourg, Thụy Điển, New Zealand, Canada, Đức, Áo, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Bỉ. Như vậy chỉ có 3 nước ngoài châu Âu là Australia, New Zealand, Canada đạt tới trình độ này.
Singapore 2018 với tổng FSI 30,4 điểm, xếp thứ 17/178 nước, là quốc gia có chỉ số FSI tích cực nhất châu Á, thành công hơn cả Pháp, Anh, Nhật Bản (tổng FSI 34,5 điểm, xếp thứ 20/178, Mỹ (37,7 xếp thứ 24/178, Hàn Quốc (tổng FSI 35,7 điểm xếp thứ 22 /178…
Việt Nam 2018 với chỉ số FSI 68,4 điểm xếp thứ 71/178 nước, có tiến bộ về phía thành công. Indonesia có tổng FSI là 72,3 điểm, xếp thứ 87/178. Thái Lan có tổng FSI là 75 điểm, xếp thứ 101/178. Lào có tổng FSI là 80,7 điểm, xếp thứ 118/178. Campuchia có tổng FSI là 84 điểm, xếp thứ 125/178. Philippines có tổng FSI là 85,5 điểm, xếp thứ 131/178. Mianmar có tổng FSI là 96,1 điểm, xếp thứ 156/178. Trong số các nước ASEAN, đã nhiều năm Lào, Campuchia, Philippines và Myanmar vẫn thuộc loại quốc gia thất bại, trong đó Myanmar vẫn là nước kém ổn định nhất.
III. Chỉ số thành bại của Việt Nam 2006-2018
Căn cứ vào các báo cáo thường niên về FSI, tổng hợp số liệu về chỉ số FSI của Việt Nam trong 15 năm qua cho thấy:
Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 70 với tổng số điểm FSI là 78,6 điểm. Trong đó, áp lực gia tăng dân số là 7,0 điểm; Tỵ nạn và nguy cơ nhân đạo là 6,5 điểm; Nhóm thù địch xã hội là 5,3 điểm; Tình trạng Di dân là 7,0 điểm; Chênh lệch phát triển vùng miền và các nhóm xã hội là 6,2 điểm; Tình trạng nghèo và suy thoái kinh tế là 5,6 điểm; mức độ tham nhũng và tính chính đáng của nhà nước là 7,0 điểm; tình trạng dịch vụ công là 6,6 điểm; tình trạng quyền con người là 7,0 điểm; bộ máy an ninh 7,5 điểm; tình trạng bỏ nước đi ra nước ngoài là 7,0 điểm và Tình trạng can thiệp từ bên ngoài là 5,9 điểm.
Trong con mắt của các chuyên gia FSI, vào năm 2006, các chỉ số mà Việt Nam còn ở mức cao là áp lực gia tăng dân số là 7,0 điểm; tình trạng di dân là 7,0 điểm; Mức độ tham nhũng là 7,0 điểm; tình trạng quyền con người là 7,0 điểm; bộ máy an ninh 7,5 điểm; tình trạng bỏ nước lưu đi ra nước ngoài là 7,0 điểm.
Năm 2007, Việt Nam xếp thứ 78 với tổng số điểm FSI là 77,8 điểm. Trong đó, áp lực gia tăng dân số là 6,5 điểm; tỵ nạn và nguy cơ nhân đạo là 5,9 điểm; nhóm thù địch xã hội là 5,3 điểm; tình trạng Di dân là 7,0 điểm; chênh lệch phát triển vùng miền và các nhóm xã hội là 6,2 điểm; tình trạng Nghèo và Suy thoái kinh tế là 6,2 điểm; mức độ tham nhũng và tính chính đáng của nhà nước là 7,0 điểm; tình trạng dịch vụ công là 6,5 điểm; tình trạng quyền con người là 6,9 điểm; bộ máy an ninh 7,4 điểm; tình trạng bỏ nước đi ra nước ngoài là 7,0 điểm và tình trạng can thiệp từ bên ngoài là 5,9 điểm.
Năm 2010 Việt Nam xếp thứ 95 (tức tăng 1 bậc về phía tích cực hơn so với năm 2009), như vậy là thành công hơn so với Ấn Độ (xếp thứ 79), Thái Lan (xếp thứ 81), Indonesia (xếp thứ 61), Phillippines (xếp thứ 51), Campuchia (xếp thứ 40), Lào (40), Myanmar (xếp thứ 16); chỉ kém Malaysia (xếp thứ 110), Brunei (xếp thứ 117), Singapore (xếp thứ 160). Như vậy, tính từ khi công bố FSI năm 2005 đến năm 2010, Việt Nam là quốc gia thành công thứ 4 trong 10 quốc gia thuộc khối ASEAN. mặc dầu vậy, với tổng số 76,6 điểm xếp thứ 95 trên 177 nước, Việt Nam vẫn thuộc vào loại quốc gia “Cảnh báo” có nguy cơ thất bại. Có hai chỉ tiêu cao từ 7,0 trở lên và tăng về phía tiêu cực, đó là chỉ tiêu tham nhũng (Thuộc tính chính đáng của nhà nước) có số điểm là 7,3 và chỉ tiêu về quyền con người cũng với số điểm là 7,3. So với năm 2009, Việt Nam thành công hơn so với Trung Quốc 33 bậc, Indonesia 34 bậc, Philippines 44 bậc, Lào và Campuchia 55 bậc, và thành công hơn so với Myanmar 79 bậc. Tuy vậy khoảng cách giữa Việt Nam với Singapore, Brunei và Malaysia vẫn cách khá xa: cách Singapore 65 bậc (thua kém Singapore về độ thành công), cách Brunei 22 bậc, cách Malaysia 15 bậc, và cách Thái Lan 14 bậc. Vào thời điểm 2010, Việt Nam thành công hơn so với Trung Quốc 33 bậc, Indonesia 34 bậc, Philippines 44 bậc, Lào và Campuchia 55 bậc, và thành công hơn so với Myanmar 79 bậc.
Năm 2017, Việt Nam xếp thứ 105 trên 178 nước với tổng số điểm FSI là 70,2. Trong đó: Áp lực gia tăng dân số 6,1 điểm; người tị nạn và nguy cơ nhân đạo 4,7 điểm; các nhóm thù địch xã hội 6,0 điểm; tình trạng di dân 6,2 điểm; chênh lệch phát triển vùng miền và các nhóm xã hội 5,0 điểm; tình trạng nghèo và suy thoái kinh tế 5,1 điểm; mức độ tham nhũng và tính chính đáng của nhà nước 8,3 điểm; tình trạng dịch vụ công 4,7 điểm; tình trạng quyền con người 7,4 điểm; bộ máy an ninh và cơ chế vận hành trong các cơ quan công quyền 4,6 điểm; tình trạng bỏ ra nước ngoài của giới thượng lưu 6,9 điểm; và tình trạng can thiệp từ bên ngoài 5,2 điểm.
Năm 2018, Việt Nam xếp thứ 107 trên 178 nước với tổng số điểm FSI là 68,4. Trong đó: Áp lực gia tăng dân số 5,8 điểm; người tị nạn và nguy cơ nhân đạo 4,4 điểm; các nhóm thù địch xã hội 5,7 điểm; tình trạng di dân 6,2 điểm; chênh lệch phát triển vùng miền và các nhóm xã hội 4,7 điểm; tình trạng nghèo và suy thoái kinh tế 4,8 điểm; mức độ tham nhũng và tính chính đáng của nhà nước 8,3 điểm; tình trạng dịch vụ công 4,4 điểm; tình trạng quyền con người 7,7 điểm; bộ máy an ninh và cơ chế vận hành trong các cơ quan công quyền 4,3 điểm; tình trạng bỏ ra nước ngoài của giới thượng lưu 6,9 điểm; và tình trạng can thiệp từ bên ngoài 5,2 điểm.
Về các chỉ số vận động theo hướng tích cực (giảm đi), Việt Nam những năm qua đã có chuyển biến đáng kể ở các chỉ số “Áp lực dân số”, “Tỵ nạn và nguy cơ nhân đạo”, “Di dân”, “Chênh lệch phát triển”, “Dịch vụ công”, “Bộ máy an ninh và cơ chế vận hành trong các cơ quan công quyền”. Các chỉ số này tuy không tiến bộ vượt bậc, nhưng thay đổi đều, tuần tự và luôn đi theo xu hướng tích cực. Sau hơn 10 năm, “Áp lực dân số” giảm độ căng thẳng từ 7.0 xuống còn 5,8. “Tỵ nạn và nguy cơ nhân đạo” giảm từ 6,5 xuống 4,4. “Di dân”, tức là tình trạng bỏ nước ra đi giảm từ 7,0 xuống 6,2; năm xuống thấp nhất là 2014 điểm chỉ số di dân năm này là 5,5 điểm. Chỉ số “Chênh lệch phát triển” giữa các vùng miền và giữa các tầng lớp cư dân giảm đáng kể theo hướng tích cực từ 6,2 năm 2006 xuống còn 4,7 năm 2018. Tình trạng “Dịch vụ công” hơn 10 năm qua cũng giảm (căng thẳng) từ 6,6 xuống còn 4,4 vào năm 2018. Mặc dù báo chí trong nước vẫn phàn nàn nhiều, nhưng chỉ số mà FSI đo được đã phản ánh sự cải thiện rất đáng kể trong khu vực này. Thật ra chúng tôi cũng không rõ các chuyên gia FSI đo đạc chi tiết bằng những đại lượng nào, nhưng việc sử dụng lại số liệu của Tổng cục Thống kê, của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như WB, UNDP, LHQ…, và của các cơ quan nghiên cứu quốc tế khác, dẫu sao cũng có ý nghĩa khách quan.
Một vài chỉ số theo FSI thì Việt Nam chưa có tiến bộ, đặc biệt là chỉ số “Tính chính đáng của bộ máy nhà nước” (Legitimacy of the State). Ở chỉ số này, thành phần đóng vai trò quyết định là các số liệu về tham nhũng, lãng phí, thất thoát nguồn lực công[10]. Việt Nam năm 2016 có chỉ số này là 7,0 điểm. Liên tục tăng đều đặn qua các năm, đến năm 2012 chỉ số này là 7,5 và năm 2018 là 8,3. Đây là con số cao so với nhiều quốc gia. Cao nhất năm 2016 với chỉ số này là Triều Tiên và Syria – hai nước này có số điểm tuyệt đối thất bại là 10/10. Những nước có chỉ số này rất cao (>9/10) là Afghanistan, Iraq, Trung Phi, Lào, Uzbekistan. Chỉ số này năm 2016 của Trung Quốc là 8,3; Campuchia 8,5; Nga 8,2; Thái Lan 7,7. Singapore được coi là nước ít tham nhũng và có hệ thống công quyền tốt nhất châu Á nhưng chỉ số này vẫn là 3,9, tiêu cực hơn so với hơn Hàn quốc (3,4), và kém hơn nhiều hơn nhiều so với Nhật 1,4; Anh 1,7; Na Uy 0,5. Phần Lan, nước thành công nhất thế giới năm 2016 có chỉ số này (“Tính chính đáng của bộ máy nhà nước”) là 0,6.
Nếu vào năm 2006, khoảng cách thành công giữa Việt Nam với Singapore và Brunei là rất xa và với Thái Lan là khá xa, thì đến 2018 Việt Nam chỉ còn thua kém Singapore 54 bậc thua kém Brunei 17 bậc, thua kém Malaysia 9 bậc, và đã vượt lên trước Thái Lan rất xa, 30 bậc[11]. Điều này một mặt phản ánh sự tiến bộ của Việt Nam, nhưng mặt khác cũng phản ánh sự bất ổn, lúng túng của Thái Lan trong xử lý các vấn đề kinh tế xã hội thập niên qua.
Ở chỉ số “Quyền con người” hơn 10 năm qua tình trạng được FSI coi là thất bại của Việt Nam cũng không giảm. Năm 2006 chỉ số “Quyền con người” của Việt Nam là 7,0. Năm 2013 là 7,5 năm 2016 là 7,5 và năm 2018 là 7,7. Điều này thể hiện cách nhìn của phương Tây vào thực trạng quyền con người ở Việt Nam. Những cố gắng của Việt Nam trong lĩnh vực này hầu như không được các chuyên gia FSI ghi nhận, mặc dù trên thực tế nhiều tổ chức quốc tế cũng đã đưa ra những đánh giá tích cực hơn về việc thực thi quyền con người ở Việt Nam.
Về chỉ số “Giới thượng lưu bỏ ra nước ngoài gồm cả tình trạng chảy máu chất xám”, theo các báo cáo của FSI, trong 13 năm qua chỉ số này ở Việt Nam cũng vẫn khá tiêu cực. Mức biến động của chỉ số này qua các năm đều ở xấp xỉ ở 0,7/10 điểm. Đây là con số khá cao tương đương với Trung Quốc (Trung Quốc năm 2012: 6,9; năm 2010: 6,9; năm 2016: 7,2; năm 2018: 7,2). Với chỉ số này, các nước có tình trạng bỏ ra nước ngoài tiêu cực hơn cả Việt Nam là Nga (năm 2010: 7,6; năm 2012: 8,0; năm 2016: 8,1; năm 2018: 8,1), Ucraina (năm 2010: 8,0; năm 2012: 8,0 năm 2016: 8,0; năm 2018: 8,0), Thái Lan (năm 2010: 8,0; năm 2012: 8,8; năm 2016: 9,7; năm 2018: 9,4. Đây là con số rất cao hàm ý Thái Lan thất bại trong lĩnh vực này), Campuchia (năm 2010: 7,7; năm 2012: 8,0; năm 2016: 8,3; năm 2018: 8,6), Lào (năm 2010: 8; năm 2012: 8,65; năm 2016: 8,1; năm 2018: 8,3). Những con số này phản ánh thái độ của Quỹ vì Hòa bình và chuyên gia FSI. Chúng tôi cũng không rõ việc thu thập dữ liệu và đo đạc được tiến hành như thế nào và độ chính xác đến đâu. Dường như ở Việt Nam, vấn đề này lại không thấy có gì được coi là nóng. Tuy nhiên, con số lạnh lùng này dẫu sao cũng là sự cảnh báo rất đáng lưu ý.
4. Kết luận
Nếu vào năm 2006, thứ hạng thành bại của Việt Nam là 70/177 nước thì đến năm 2018 Việt Nam đã ở vị trí 107/178 nước, tiến về phía tích cực 37 bậc và còn cách xa nước thành công nhất là Phần Lan 71 bậc. Năm 2006, khoảng cách thành công giữa Việt Nam với Singapore và Brunei là rất xa và với Thái Lan là khá xa. Đến năm 2018, Việt Nam chỉ còn thua kém Singapore 54 bậc, thua kém Brunei 17 bậc, thua kém Malaysia 9 bậc, và đã vượt lên trước Thái Lan rất xa, 30 bậc. Tuy nhiên điểm tuyệt đối của chỉ số FSI thì chưa cải thiện nhiều, mới chỉ từ 78,6 điểm giảm xuống còn 68,4 điểm. Nghĩa là mới chỉ cải thiện được 10,2 điểm về phía tích cực, vẫn nằm trong số quốc gia thuộc loại “Cảnh báo”. Điều này một mặt phản ánh sự tiến bộ của Việt Nam, nhưng cũng phản ánh sự thất bại của một số quốc gia trên thế giới đã làm thay đổi vị trí tương đối của Việt Nam.
Chúng tôi cho rằng, dẫu ai đó chưa hài lòng nhưng dẫu sao đó cũng là những thành tựu đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam về phương diện thể chế phát triển, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế làm thế giới chao đảo những năm 2008-2011, tình trạng khủng bố và bất ổn làm suy thoái nhiều quốc gia, tình hình chính trị ngày càng căng thẳng ở biển Đông, và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung chưa dễ dự đoán hiện nay, v.v… Và, nếu lưu ý đến tình trạng chế độ chính trị ở Việt Nam không tương đồng với nhiều quốc gia khác, thì những thành tựu đó còn có ý nghĩa hơn nhiều.
Những số liệu mà FSI đã công bố cho thấy mức độ thành công của Việt Nam 13 năm qua như vậy là không đến nỗi bi quan, mặc dù thực trạng dư luận trong nước qua báo chí và qua các hội nghị thường kỳ của Quốc hội và Chính phủ thì dường như còn kém lạc quan hơn. Cần phải nhìn vào thực trạng đó để thấy được những cố gắng chủ quan của Việt Nam trong hơn 10 năm qua kể từ khi có Báo cáo FSI đầu tiên, sự tiến bộ của Việt Nam trong việc duy trì và kiểm soát các nhân tố thành bại, theo chúng tôi là rõ và chấp nhận được. Trong bối cảnh thế giới có nhiều nước bị tụt hạng thì việc Việt Nam vẫn giữ thứ hạng thành công như đã công bố trong bảng xếp hạng toàn cầu là sự phản ánh thực tế khách quan./,
GS.TS Hồ Sĩ Quý
Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Viện HLKHXHVN
[1]. Xem: Acemoglu D. và Robinson A.J. (2013). Tại sao các quốc gia thất bại: nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói. Nxb Trẻ. tp Hồ Chí Minh (Daron Acemoglu, GS. kinh tế Viện Massachusetts, Mỹ, và James A. Robinson, GS. chính trị học ĐH Harvard).
[2]. Xem: Acemoglu D. và Robinson A.J. (2013). Sđd.
[3]. Acemoglu D. và Robinson A.J. (2013). Sđd. tr. 111-112.
[4] Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ. WB-Bộ KH&ĐT xuất bản (2016). tr. 92.
[5] Douglass C. North (1994). Institutional Competition. Economic History 9411001, EconWPA.
[6]. Xem: Acemoglu D. và Robinson A.J. (2013). Sđd. Tr 111-112, 562-567.
[7]. Xem: Acemoglu D. và Robinson A.J. (2013). Sđd. Lời tựa.
[8]. See: Fragile States Index. http://fundforpeace.org/fsi/. Quỹ vì Hòa bình (Fund for Peace), một Think tank độc lập thuộc tạp chí Foreign Policy, Mỹ; được thành lập năm 1957.
Từ 2014, tên gọi của chỉ số có một chút thay đổi từ “Failed States Index” sang “Fragile States Index”. Cả hai tên gọi này chúng tôi đều dịch là “Chỉ số thành bại của các quốc gia” bởi tên gọi này phản ánh chính xác hơn tư tưởng của các nhà thiết kế - chỉ số chung và các chỉ số thành phần đều đo theo thang điểm 10: điểm cao hơn phản ánh tình huống có vấn đề (Problematic Situations) nhiều hơn, tức là độ thất bại lớn hơn. Điểm thấp hơn là điểm ít có vấn đề ít hơn, ít thất bại nhất, tức là thành công hơn. Thực chất chỉ số này phản ánh cả sự thành công và sự thất bại của các quốc gia. Những nước có chỉ số cao là những nước thất bại, thực ra là thất bại nhiều, thành công ít. Ngược lại, những nước thành công là nhưng nước có chỉ số thấp, thực ra là thất bại ít, thành công nhiều.
[9]. Xem: Heather Carriro (2010). Life in a “failed state”. Http://matadornetwork.com/abroad/life-in-a-failed-state-a-response-to-foreign-policys-postcards-from-hell/ June 25
[10]. Chỉ số tham nhũng của Việt Nam công bố 2/2018 là 35/100, xếp thứ 107/180 nước. Xem: Corruption Perceptions Index 2017. https://www.transparency.org/news/feature/corruption_perceptions_index_2017
[11]. Năm 2006: chỉ số FSI của Việt Nam là 78,6/ xếp thứ 70/146 nước; trong khi đó Brunei là 16,8/146/146; Singapore là 30,8/133/146; và Thái Lan là 74,9/79/146. Đến năm 2018: chỉ số FSI của Việt Nam là 68,4/ xếp thứ 107/178 nước; trong khi đó Brunei là 59,8/124/178; Singapore là 30,4/161/178; và Thái Lan là 75/77/178.