Thứ Bảy, ngày 04 tháng 05 năm 2024

Thực trạng và giải pháp bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bảo đảm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững ở Việt Nam (phần 2)

Ngày phát hành: 13/04/2022 Lượt xem 13294

 

3. Những thách thức và dự báo tác động đến mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

 

3.1 Bối cảnh thế giới

 

3.1.1. Thách thức do biến đổi khí hậu và thiên tai gia tăng

Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển đạt 403,3ppm năm 2016, 405,5ppm năm 2017 và 408 năm 2018. Những đợt sóng nhiệt tăng cường, mưa bão, hạn hán, thiên tai, ngập lụt diễn ra ở phạm vi rộng hơn, đặc biệt là ở các thành phố ven biển, gây thiệt hại nặng nề đến cuộc sống con người và tiếp tục hủy hoại các hệ sinh thái.

Tháng 6/2019 là tháng 6 nóng nhất kể từ khi loài người bắt đầu ghi nhận số liệu thời tiết kể từ năm 1800, Trong đó, châu Âu phải gánh chịu đợt nắng nóng chưa từng có như ở Tây Ban Nha nhiệt độ đã có lúc lên 42oC gây thiệt hại lớn về người và của, các chuyên gia cảnh bảo hiện tượng này sẽ xuất hiện thường xuyên hơn. Theo thống kê mới nhất, tháng 6/2020 vừa qua cùng với tháng 6/2015 được ghi nhận là tháng 6 nóng thứ 2 chỉ sau tháng 6/2019 dù không có tác động của El Nino. Theo Copernicus ECMWF, trên phạm vi toàn cầu, chỉ riêng trong 12 tháng qua, tính từ tháng 7/2019 đến tháng 6/2020, nhiệt độ trung bình của Trái Đất đã cao hơn trung bình của giai đoạn 1981-2010 là 0,65°C.

Kể từ năm 2019 trở lại đây, thiên tai liên tục xảy ra trên toàn cầu. Chẳng hạn như, tại Hoa Kỳ, đợt lũ lụt lịch sử ở khu vực miền Tây nước Mỹ đã khiến 74 thành phố phải ban bố tình trạng khẩn cấp. Gần đây nhất, chúng ta chứng kiến trận đại hồng thủy ở Trung Quốc do mưa lớn liên tục cao hơn khoảng 12% so với bình quân làm tổng cộng hơn 400 nhánh sông Trường Giang bị tràn nước, ảnh hưởng tới 38 triệu người sinh sống tại 27 trong số 31 tỉnh thành của Trung Quốc, khiến 2,2 triệu người phải sơ tán. Nhiều di sản được được gìn giữ hàng vài trăm năm bị phá hủy. Theo Báo cáo mới nhất (ngày 8/8/2019) của Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng trực tiếp, tác động mạnh đến an ninh lương thực do nhiệt độ tăng, thay đổi lượng mưa, tần suất các hiện tượng cực đoan; đồng thời làm gia tăng sức ép lên hệ thống đất đai qua đó bùng phát nguy cơ cao về hoang mạc hoá, suy thoái đất. Biến đổi khí hậu đang trở thành thảm họa đe dọa tới sự tồn tại, phát triển của nhân loại trên Trái Đất nếu ngay từ bây giờ không có các giải pháp ứng phó hiệu quả.

 

3.1.2. Ô nhiễm môi trường và suy giảm đa dạng sinh học ở mức báo động, dịch bệnh gia tăng

Ô nhiễm môi trường vẫn đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nơi, kéo theo các vấn đề về ô nhiễm xuyên biên giới, chuyển dịch chất thải sang các quốc gia đang và kém phát triển. Hậu quả của ô nhiễm môi trường là tác hại sức khỏe, đời sống sinh vật và phát triển kinh tế, an sinh xã hội.

Ô nhiễm không khí đã đạt mức báo động ở nhiều nơi trên thế giới: tháng 11 năm 2018, Cơ quan ứng phó với tình trạng khẩn cấp do ô nhiễm không khí của thành phố Bắc Kinh đã ban bố lệnh báo động vàng về tình trạng ô nhiễm khói mù.

Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí sạch (CREA) và Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) khu vực Đông Nam Á công bố ngày 12/2/2020, mỗi ngày, chi phí để giải quyết tình trạng ô nhiễm không khí trên thế giới do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã lên tới 8 tỷ USD, tương đương khoảng 3,3% GDP toàn cầu. Trung Quốc đại lục, Mỹ và Ấn Độ là những nước chịu thiệt hại nhiều nhất do ô nhiễm không khí. Các hạt bụi mịn nhất là bụi mịn PM 2.5 sinh ra khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch được cho là nguyên nhân khiến khiến 4,5 triệu ca tử vong sớm mỗi năm trên toàn cầu. Con số này cũng gần tương đương với số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính 4,2 triệu người tử vong mỗi năm do ô nhiễm không khí gây ra, chủ yếu là bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi và viêm đường hô hấp cấp ở trẻ em.

- Suy giảm các hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên sinh vật, đặc biệt là tài nguyên rừng và biển vùng nhiệt đới, do xâm lấn, phá hoại nơi cư trú, khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường. Hậu quả của suy giảm tài nguyên sinh vật không chỉ dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học mà còn gây suy giảm tài nguyên nước, đất, không khí, cảnh quan, ảnh hưởng xấu đến kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, gia tăng các tai biến thiên tai, biến đổi khí hậu.  Theo nghiên cứu công bố tháng 6/2019 mới đây của Maria Vorontsova thuộc Royal Botanic Gardens, Kew, từ năm 1750 đến nay, đã có 571 loài thực vật biến mất hoàn toàn khỏi Trái Đất (trong khi con số thực tế có thể cao hơn, do hạn chế về thông tin của rất nhiều loài). Theo Sách Đỏ mới được Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cập nhật tháng 7/2019, hoạt động của con người như săn bắt thiếu bền vững, phá huỷ nơi cư trú, đã đẩy hơn 28 nghìn loài động thực vật đến mức đe doạ nguy cấp. Con số 28.338 loài trong danh sách cập nhật năm nay đã tăng 6% so với năm 2018 (26840 loài).

- Mưa axit do tăng nồng độ các khí SO2, NOx trong không khí do phát thải từ sử dụng khối lượng lớn nhiên liệu hóa thạch. Hậu quả của mưa axit là tác hại sinh thái, công trình xây dựng và phát triển kinh tế.

- Sa mạc hóa, thoái hóa đất do mất thảm thực vật và suy giảm nguồn nước mặt và nước dưới đất, dẫn tới tác hại tài nguyên đất, nước, khí hậu và phát triển kinh tế, an sinh xã hội.

- Chúng ta đã chứng kiến dịch SARS, H5N1, Ebola, MERS, bệnh dại từ dơi có nguồn gốc từ động vật hoang dã và sự lây lan của nó cũng khởi đầu từ việc săn bắt và tiêu dùng động vật hoang dã làm thực phẩm. Và hiện nay nhân loại đang đối mặt với sự lây lan của dịch COVID-19. Dịch bệnh kéo theo sự suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới, gây ra sự đứt gãy trong chuỗi sản xuất toàn cầu. Nhiều quốc gia, tập đoàn kinh tế phải điều chỉnh mô hình kinh tế và mục tiêu phát triển

 

3.2 Bối cảnh ở Việt Nam

 

3.2.1. Hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, suy thoái các nguồn tài nguyên đang xảy ra ở nhiều nơi

- Tài nguyên đất đai, động lực phát triển giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, đang được sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, đứng trước nguy cơ suy thoái. Chính sách về đất đai pháp luật về đất đai chưa theo kịp cơ chế thị trường và yêu cầu phát triển; các chính sách về kinh tế, tài chính, thuế chưa được hoàn thiện; chính sách thu tiền sử dụng đất chưa chú trọng đến nuôi dưỡng nguồn thu. Hiệu quả sử dụng đất còn thấp so với các nước trong khu vực nhất là trong sử dụng đất nông nghiệp (giá trị thu nhập bình quân đối với đất trồng lúa đạt 120 triệu VNĐ/ha/năm). Tình trạng lãng phí tài nguyên đất đai, chậm đưa đất vào sử dụng xảy ra ở nhiều nơi. Tình trạng suy thoái đất diễn ra nhanh dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và hoạt động sản xuất của con người. Trong đó đồng bằng sông Cửu Long có 1,2 triệu ha đất bị nhiễm mặn, phèn; vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ có khoảng 2,28 triệu ha bị suy thoái, có nguy cơ trượt lở; vùng Duyên hải Nam Trung bộ có 0,8 triệu ha bị hoang hóa, sa mạc hóa.  Nếu không có các giải pháp bảo vệ, phục hồi diện tích đất này mất chức năng sản xuất.

- Tài nguyên nước của Việt Nam về cả số lượng và chất lượng đều đang đối mặt với những đe dọa ngày càng lớn. Nguồn nước mặt chủ yếu là nguồn nước ngoại sinh với 206 sông lớn bắt nguồn từ nước ngoài và nguồn nước ngoại sinh chiếm 520 tỷ m3, bằng 63% tổng lượng nước bề mặt. Trong 13 lưu vực sông lớn hơn 10 nghìn km2, có 7 lưu vực liên quốc gia, trong đó nguồn nước ngoại sinh của sông Cửu Long 450 tỷ m3, sông Hồng 52 tỷ m3 và một số sông lớn khác như sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai, Sông Bằng Giang,….Các sông trong nước cũng chảy ra nước ngoài với dung tích 42 tỷ m3 sang Trung Quốc, Lào, Campuchia.

Hiện nay, các hồ chứa thủy điện và hồ chứa thượng nguồn có thể kiểm soát được 20% tổng lương nước chảy vào Việt Nam, nếu các nước khu vực thượng nguồn kiểm soát chúng ta sẽ bị ảnh hưởng an ninh nguồn nước. Với tốc độ phát triển dân số như hiện nay đến năm 2025 thì bình quân đạt 2.830 m3/người/năm đối với lượng nước nội sinh và 7.660m3/người/năm đối với tổng lượng nước. Theo chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước quốc tế (IWRA) thì quốc gia nào có lượng nước bình quân đầu người dưới 4.000 m3/người/năm là quốc gia thiếu nước. Tỉ lệ nguồn nước sinh ra từ ngoài bên giới của các sông Cửu Long là 95%, sông Hồng – Thái bình là 40%, sông Mã là 22%, sông Đồng Nai là 30%.

Mối đe dọa chính là tác động của nguồn nước ô nhiễm lên sức khỏe con người, có thể làm giảm 3,5% GDP vào năm 2035. Việc tiếp cận đa ngành, liên vùng đối với quản lý tài nguyên nước vẫn là một thách thức lớn dẫn đến cạnh tranh, mâu thuẫn trong sử dụng nước ngày càng tăng giữa các địa phương, các đối tượng sử dụng, mục đích sử dụng gây sức ép lên tài nguyên nước. Một số khu vực, nguồn nước dưới đất cũng bị khai thác quá mức. Mực nước dưới đất ở một số khu vực bị suy giảm liên tục và chưa có dấu hiệu hồi phục, một số khu vực có hiện tượng sụt lún.

 

3.2.2. Vấn đề ô nhiễm môi trường

- Mặc dù xu thế gia tăng nhanh các vấn đề ô nhiễm môi trường đã từng bước được kiềm chế song ô nhiễm môi trường vẫn diễn biến phức tạp ở một số nơi vào một số thời điểm. Ô nhiễm theo các dòng chảy xảy ra ở nhiều lưu vực sông như sông Đồng Nai, Nhuệ - Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai. Tình trạng ô nhiễm tại các làng nghề chưa được giải quyết dứt điểm.

Các dự án đầu tư phát triển, đặc biệt là các dự án thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vẫn được đầu tư tại các khu vực đầu nguồn nước, khu vực có mức độ nhạy cảm cao về môi trường, đang tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố môi trường lớn, nghiêm trọng đối với nước ta. Đã có những sự cố môi trường lớn gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, tổn thương đến các hệ sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt và sinh kế của người dân.

 

3.2.3. Tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu

BĐKH xu thế ngày càng phức tạp, khó lường, các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng và khó dự báo do tính thất thường. Quỹ đạo bão đã dịch chuyển dần xuống phía Nam và bão với cường độ lớn (trên cấp 12) diễn ra thường xuyên hơn nhiều trong vòng 35 năm trở lại đây. Các đợt nóng, lạnh sẽ tăng cường và mực nước biển sẽ dâng thêm tại các vùng biển của Việt Nam. Biến thiên lượng mưa giữa các mùa dự báo cũng sẽ tăng, mùa mưa sẽ mưa nhiều hơn và mùa khô sẽ khô hơn. Mưa lớn và lũ lụt sẽ xảy ra thường xuyên hơn, nhất là tại phía Bắc và Trung Bộ nguy cơ sạt lở đất sẽ tăng. Đây là những thách thức lớn đến mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn và nông ở Việt Nam.

 

3.2.4. Vấn đề di cư từ nông thôn đến đô thị

Biến đổi khí hậu và thiên tai cực đoan đã, đang tiềm ẩn sinh các dòng di cư, tỵ nạn. Những vấn đề của BĐKH nêu trên có thể ảnh gây ra nhiều tác động nặng nề đến nền kinh tế, đe dọa cuộc sống và sinh kế của những nhóm người dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số và người tàn tật ở khu vực nông thôn. Mặc dù BĐKH không trực tiếp buộc người dân phải đi lánh nạn hay di dời nơi ở nhưng nó làm gia tăng tần suất và cường độ thiên tai và các áp lực môi trường khác và làm cho người dân khó mà có thể trụ lại tại nơi mà họ đang sinh sống. Theo báo cáo của Trung tâm Theo dõi Di trú Trong nước (IDMC) năm 2013, số người phải di dời khỏi ĐBSCL tương ứng là 1 triệu người trong giai đoạn 2008-2012, và 2 triệu người trong giai đoạn 1994 – 2014. Việt Nam đứng hàng thứ 17/82 quốc gia có số người di cư lớn nhất do thiên tai. Con số này có sự tương đồng với kết luận tại Hội thảo tổ chức tại Cần Thơ (10/2016), trong vòng 20 năm (1994-2014), có 2 triệu người di cư khỏi ĐBSCL và nữ giới chiếm đa số. Riêng trận lụt tháng 9-10 năm 2011 tại ĐBSCL đã buộc 200.000 người dân phải di dời chỗ ở.

 

Một số nghiên cứu gần đây của ở Việt Nam cũng chỉ ra mối quan hệ giữa BĐKH với vấn đề di cư. Nghiên cứu của Oxfam và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại tỉnh Quảng Trị cho thấy BĐKH làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan, dẫn đến mùa màng thất thu và ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện sinh kế, qua đó trực tiếp tác động đến quyết định di dời. Nghiên cứu của tổ chức CARE Quốc tế tại tỉnh Đồng Tháp đã chỉ ra rằng động lực quan trọng trong làn sóng di cư đến các khu công nghiệp và Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) chủ yếu là để ứng phó với tình trạng lũ lụt và thiếu đất sản xuất. Một nghiên cứu khác của Đại học Cần Thơ được thực hiện tại tỉnh Cà Mau cũng cho thấy di cư và đa dạng hóa sinh kế là hai trong số các giải pháp quan trọng mà người dân, đặc biệt là những người làm nghề đánh bắt thủy sản quy mô nhỏ, đang áp dụng để ứng phó với điều kiện thời tiết khắc nghiệt, nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt và những mối nguy hiểm khác.

 

 

3.3. Các vấn đề về lý luận và thực tiễn

Một là, ô nhiễm môi trường vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng ở Việt Nam, được thể hiện ở các mặt sau: 1) Ô nhiễm nước ở Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, kể cả ở các vùng nông thôn, nhưng đặc biệt nghiêm trọng là ở các cụm công nghiệp và làng nghề có liên quan đến hoạt động xả thải; 2) Ô nhiễm môi trường đất do việc sử dụng phân bón hoá học, thuốc diệt cỏ, diệt côn trùng; 3) Ô nhiễm không khí do các nguồn tại chỗ và do các nguồn xuyên biên giới; 4) Suy giảm các hệ sinh thái, như suy giảm hệ sinh thái rừng, bao gồm cả rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn, suy giảm hệ sinh thái biển,... Nổi cộm nhất và được chú trọng nhiều nhất là sự suy giảm về chất lượng rừng đầu nguồn vì nó liên quan đến khả năng bảo tồn và duy trì tài nguyên nước ngầm và vai trò phòng hộ trong phòng tránh thiên tai.

Việc phòng ngừa ô nhiễm vẫn chưa thực sự hiệu quả; công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường đối với cụm công nghiệp, lưu vực sông, làng nghề chưa có nhiều chuyển biến; công nghệ xử lý chất thải rắn còn lạc hậu, việc nhập khẩu chất thải trái phép chưa chấm dứt; phần lớn nước thải sinh hoạt đô thị chưa được xử lý. Vi phạm môi trường ngày càng tinh vi và phức tạp. Nhiều khu vực ô nhiễm, suy thoái môi trường chưa được phục hồi; việc xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng còn chậm; chất lượng môi trường không khí chưa được cải thiện. Tài nguyên vẫn đang bị khai thác không bền vững, sử dụng không hiệu quả. Canh tác nông nghiệp thiếu bền vững làm cho đất bị thoái hóa, biến chất. Tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng tiếp tục suy giảm; việc thành lập mới và mở rộng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên còn chậm, khó đạt được mục tiêu đề ra; xu hướng suy giảm các loài động, thực vật, nguồn gien còn tiếp diễn.

Ô nhiễm môi trường đã và sẽ gây ra những thiệt hại ngày càng lớn, những hậu quả ngày càng nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam: suy thoái đa dạng sinh học và mất cân bằng sinh thái; suy thoái chất lượng rừng và mất chức năng phòng hộ; gia tăng ô nhiễm môi trường và vấn đề an toàn thực phẩm; gia tăng hạn hán, thoái hóa đất và vấn đề an ninh lương thực; cạn kiệt nguồn tài nguyên và gia tăng các xung đột môi trường; gây nên các mối đe dọa an ninh sinh thái và an ninh môi trường xuyên biên giới; gia tăng tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường.

Chính vì vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) để phát triển kinh tế - xã hội là thách thức lớn đối với đất nước ta trong thời gian tới.

Hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng về BVMT được hình thành và phát triển, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013, “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, xác định rõ quan điểm, mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ, giải pháp trong công tác BVMT. Nghị quyết nêu 3 nhóm nhiệm vụ và 5 nhóm giải pháp về BVMT. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã bổ sung, cập nhật quan điểm, định hướng về BVMT, trong đó chỉ ra một trong những hạn chế là: “Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 2016). Và đặc biệt mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của công tác BVMT, trong đó đã khẳng định quan điểm: "Phải lấy BVMT sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.

Những hạn chế, bất cập nêu trên có các nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:

 

Về nguyên nhân khách quan:

1) Quy mô nền kinh tế và dân số nước ta ngày càng tăng, mức độ công nghiệp hóa và đô thị hóa ngày càng cao, khai thác tài nguyên thiên nhiên ồ ạt và thiếu kiểm soát, phát sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm; lượng chất thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng, kết cấu hạ tầng thu gom và xử lý chất thải còn thiếu và không được đầu tư đồng bộ, dẫn đến áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường;

2) Môi trường sinh thái nước ta chịu tác động mạnh của BĐKH toàn cầu, các vấn đề môi trường phi truyền thống gia tăng cùng với hội nhập quốc tế; vấn đề ô nhiễm môi trường xuyên biên giới ảnh hướng lớn đến nước ta; 3) Còn tồn tại quan điểm ưu tiên và coi trọng tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư bằng mọi giá và xem nhẹ yêu cầu BVMT; quan điểm không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế chưa thực sự được thực hiện triệt để; văn hóa, ý thức trách nhiệm BVMT của người dân và doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; việc thực thi các chính sách và công cụ BVMT còn nhiều bất cập và hiệu quả thấp.

 

Về nguyên nhân chủ quan:

1) Nguyên nhân sâu xa và chủ yếu là hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT còn chồng chéo và bất cập; các công cụ quản lý môi trường chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả; cách tiếp cận và công cụ quản lý mới chưa được thể chế hóa kịp thời và không theo kịp những diễn biến nhanh của các vấn đề môi trường, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước;

2) Năng lực quản lý nhà nước về môi trường và quản trị môi trường của doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu; mô hình tổ chức cơ quan quản lý về BVMT từ Trung ương xuống đến địa phương chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý đối với một số lĩnh vực lớn, phức tạp, nhạy cảm đang gia tăng hiện nay; cơ quan quản lý địa phương còn phụ thuộc vào các quyết định thu hút đầu tư dự án (kể cả dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng) của ủy ban nhân dân các cấp, chưa coi trọng ý kiến phản biện độc lập trong công tác BVMT hoặc có ý kiến nhưng cũng rất khó được chấp thuận trong một số dự án cụ thể;

3) Nguồn lực tài chính đầu tư cho BVMT từ ngân sách nhà nước và vốn doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu; thiếu cơ chế đột phá để huy động nguồn tài chính cho công tác BVMT;

4) Nhận thức và đạo đức môi trường, ý thức trách nhiệm BVMT của doanh nghiệp, cộng đồng nhiều nơi còn thấp, dẫn đến thiếu ý thức tự giác trong BVMT;

5) Vẫn còn lúng túng trong việc kiểm soát, quản lý về môi trường đối với các dự án, tổ hợp công nghiệp lớn, công nghệ cao, phức tạp, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; năng lực dự báo, cảnh báo phòng ngừa và ứng phó với các sự cố môi trường của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT, của địa phương và các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế;

6) Tổ chức thực hiện công tác BVMT còn có những điểm yếu kém, nhất là ở cấp địa phương, cơ sở, kể cả cấp độ quản lý nhà nước về BVMT và quản trị môi trường ở các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề và doanh nghiệp;

7) Công tác tuyên truyền, giáo dục môi trường nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm BVMT trong và ngoài hệ thống giáo dục quốc gia còn hạn chế.

 

Tồn tại về mặt nhận thức:

- Bảo vệ môi trường chưa trở thành ý thức, hành động, thói quen, nếp sống, văn hóa của người dân; còn một bộ phận không nhỏ thiếu ý thức giữ gìn, BVMT.

- Một số cấp ủy, chính quyền vẫn chưa thực sự nhận thức đầy đủ, đúng mức về tầm quan trọng của công tác BVMT đối với sự nghiệp phát triển nhanh, bền vững đất nước; còn tồn tại khoảng cách lớn giữa nhận thức và hành động, giữa cam kết và thực hiện trong bảo vệ môi trường. Đặc biệt, trong chỉ đạo, điều hành, tư tưởng “Ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, coi nhẹ các yêu cầu BVMT” vẫn còn phổ biến ở một số cấp ủy và lãnh đạo chính quyền các cấp.

- Nhận thức, hiểu biết về tăng trưởng xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn như là một phương thức để thúc đẩy phát triển bền vững, BVMT vẫn còn hạn chế.

 

Hai là, Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đe dọa tới phát triển bền vững, đặc biệt an ninh lương thực của các quốc gia trên thế giới. Hội nghị các bên về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26) đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, đánh dấu sự chuyển đổi mang tính đột phá trong mô hình phát triển trên thế giới, từ dựa trên năng lượng hóa thạch sang phát triển theo hướng ít phải thải hướng tới phát thải ròng bằng “0”. Trong Hội nghị này ngoài các cam kết thực hiện các mục tiêu giảm phát thải trong NDC, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050. Thêm vào đó, Việt Nam cũng đã cùng hơn 109 quốc gia tham gia trong Cam kết giảm phát thải metan toàn cầu với mức cắt giảm 30% năm 2030, đồng nghĩa với việc phải thực hiện cắt giảm mạnh mẽ trong 3 lĩnh vực phát thải khí metan chủ yếu là nông nghiệp, rác thải và năng lượng.

Tuy nhiên, theo báo cáo của Tổ chức Carbon Brief của Vương quốc Anh, nếu các quốc gia thực hiện nghiêm túc các cam kết trong các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính đến năm 2030 theo Báo cáo quốc gia tự quyết định (NDC) được cập nhật tại Hội nghị các bên (COP) về biến đổi khí hậu lần thứ 26 tổ chức tại Glassgow, Cộng hòa Ai-len, thì nhiệt độ trái đất đến cuối thế kỷ tăng 2.3oC, và nếu các quốc gia thực hiện đầy đủ các cam kết trong NDC và cam kết phát thải ròng bằng 0 thì cuối thế kỷ này nhiệt độ trái đất vẫn tăng 1.8oC so với thời kỳ tiền công nghiệp, cao hơn so với mức nhiệt độ hướng tới là 1.5 oC.

Tác động tiêu cực của BĐKH ngày càng rõ ràng, xu thế thiên tai ngày càng khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan. Bão lớn diễn ra thường xuyên hơn nhiều trong vòng 35 năm trở lại đây. Các đợt nóng, lạnh sẽ tăng cường và mực nước biển sẽ dâng thêm 28-33cm tại các vùng biển của Việt Nam. Nông nghiệp, nhất là sản xuất lúa, dự kiến sẽ bị ảnh hưởng mạnh, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị tác động nghiêm trọng nhất.. Hệ sinh thái biển của Việt Nam cũng sẽ bị tác động nghiêm trọng. Tác động của biến đổi khí hậu cũng sẽ để lại những hệ quả tiêu cực về sức khoẻ như các bệnh truyền nhiễm do nước, truyền nhiễm. Những tác động nghiêm trọng của BĐKH đến sinh kế nông nghiệp, nông thôn và nông dân là:

 

Thứ nhất, mất đất canh tác do nước biển dâng. Theo kịch bản biến đổi khí hậu năm 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến cuối thế kỷ 21, theo kịch bản trung bình (RCP4.5), khu vực ven biển Việt Nam có mực nước biển dâng trung bình tăng khoảng 53 cm, tăng nhiều nhất khoảng 76 cm so với thời kỳ cơ sở 1986-2005. Theo kịch bản cao (RCP8.5), mực nước biển dâng trung bình tăng khoảng 73 cm, tăng nhiều nhất khoảng 103 cm.

Trong tương lai nếu mực nước biển dâng 100cm và không có các giải pháp ứng phó, khoảng 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), 1,5% diện tích các tỉnh ven biển Miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,8% diện tích TP. Hồ Chí Minh và 38,9% diện tích ĐBSCL có nguy cơ bị ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước phục vụ mục đích sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.

 

Thứ hai, suy giảm nguồn nước và gia tăng hạn mặn. Ảnh hưởng của BĐKH đến sự biến đổi tài nguyên nước ở Việt Nam nhận thấy rõ nhất là sự thay đổi chế độ dòng chảy ở một số sông khu vực miền núi phía bắc và thượng nguồn đồng bằng sông Cửu Long. Dòng chảy trung bình mùa lũ trung bình mỗi năm tại Tân Châu giảm khoảng 28 m3/s, tại Châu Đốc giảm khoảng 21 m3/s; dòng chảy trung bình mùa cạn trung bình mỗi năm tại Châu Đốc giảm 15 m3/s. Khi dòng chảy thiếu hụt, sẽ tác động hết sức tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt với phát triển nông nghiệp ở ĐBSCL.

Do thiếu hụt dòng chảy cùng với ảnh hưởng của nước biển dâng làm cho hiện tượng hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL và ven biển Trung Bộ ngày càng nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng rất lớn sinh kế. Chỉ trong khoảng 5 năm chúng ta đã phải đối mặt với hai mùa khô hạn hán, xâm nhập mặn đặc biệt nghiêm trọng (2015-2016 và 2019-2020), ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

 

Thứ ba, ảnh hưởng đến cơ cấu và năng xuất cây trồng: Nhiệt độ tăng, hạn hán, thiếu nước tưới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân bố của cây trồng, đặc biệt làm giảm năng suất, cụ thể là năng suất lúa của vụ xuân có xu hướng giảm mạnh hơn so với năng suất lúa của vụ mùa mặc dù năng suất ngô vụ đông có xu hướng tăng ở đồng bằng Bắc Bộ và giảm ở Trung Bộ và Nam Bộ. Ước tính năng suất lúa xuân ở vùng đồng bằng sông Hồng có thể giảm tới 16,5% vào năm 2070; năng suất lúa mùa có thể giảm 5% vào năm 2070 nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả. Nghiên cứu của Phạm Quang Hà và cs (2014) chỉ ra rằng biến đổi khí hậu gây tổn thương lớn đối với sản xuất các cây trồng chủ lực tại cả 2 vùng ĐBSH và ĐBSCL. Năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cây trồng chủ lực được dự báo bị tác động mạnh của biến đổi khí hậu theo các kịch bản ở vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2050.

 

Thứ tư, ảnh hưởng đến sinh kế từ hoạt động nuôi trồng thủy sản. Việt Nam hiện có 28 tỉnh/thành phố ven biển với 120 huyện/thị xã/thành phố bao gồm khoảng 700 xã/phường/thị trấn làm nghề khai thác biển. Ước tính có tới 58% dân cư vùng ven biển có sinh kế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 700.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá. Ngoài tạo việc làm cho nhóm dân cư làm nghề khai thác, nuôi trồng hải sản, nghề cá biển còn tạo ra nguồn thu trực tiếp và gián tiếp cho hàng triệu lao động tham gia vào các hoạt động cung ứng dịch vụ trên bờ như: cảng cá, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất ngư cụ, …Tuy nhiên, do tác động của BĐKH nên các hoạt động sinh kế dựa vào khai thác và nuôi trồng thủy sản có nguy cơ chịu tác động nghiêm trọng.

Các nghiên cứu đã chỉ ra khi lượng mưa của vùng ven biển tăng lên 100 mm thì sản lượng khai thác thủy sản trong cùng năm giảm trung bình từ 0,98% đến 2,2% và có thể giảm 1,5% sản lượng khai thác của năm sau. Thiệt hại về mặt kinh tế hàng năm (theo giá so sánh 2012, tỷ lệ chiết khấu 3%/ năm) của lĩnh vực khai thác thủy sản và nuôi trồng thủy sản tại 10 tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên - Huế) do thay đổi về lượng mưa đến năm 2050 được dự báo ở mức tương ứng khoảng 35 tỷ đồng và 60 tỷ đồng.

Tác động tiêu cực của bão đối với lĩnh vực thủy sản không chỉ ảnh hưởng tới sản lượng khai thác trong một năm, mà có thể làm ảnh hưởng tới sản lượng khai thác của những năm sau. Một số nghiên cứu cho thấy nếu tăng một cơn bão sẽ làm giảm sản lượng khai thác khoảng 1,57% trong cùng năm và giảm 2,17% trong năm tiếp theo. Như vậy, với xu thế bão mạnh gia tăng trong tương lai do BĐKH sẽ là nguy cơ và thách thức lớn đối với hoạt động nuôi trồng thủy văn.

Biến đổi khí hậu hiện là một trong những mối đe dọa hàng đầu đối với nông nghiệp, mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống đồng thời bảo đảm cam kết của chính phủ trong giảm phát thải khí nhà kính đối với công tác “Tam nông” trong thời điểm hiện nay đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới, khai thác hợp lý và khôn khéo tài nguyên thiên nhiên nói chung, khí hậu thời tiết nói riêng trong việc đảm bảo mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Vấn đề ô nhiễm môi trường, sử dụng tài nguyên cũng cần đặt ra trong đó việc bảo đảm không chỉ sản lượng mà chất lượng và tính ổn định của sản xuất sẽ là yếu tố quyết định đến chiến lược xuất khẩu nông sản việt Nam.

Lồng ghép giữa phát triển sản xuất và chiến lược giảm phát thải sẽ cần phải có những biện pháp, chế tài cũng như sự phối hợp của liên bộ, ngành trong từng công đoạn, từng khâu của sản xuất; trong đó phải đặt nông dân, nông thôn lên hàng đầu, lấy người nông dân là chủ thể, mọi cơ chế, chính sách,... đều phải đặt người dân lên trước tiên.

 

 

4. Quan điểm, nhiệm vụ trọng tâm tiếp tục phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045

 

4.1. Quan điểm

Xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, là trụ đỡ của nền kinh tế, ổn định xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh quốc gia. Nông dân là trung tâm và giữ vai trò chủ thể.

Phát triển nông nghiệp bền vững trên cơ sở khai thác, phát huy lợi thế vùng, miền, lĩnh vực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong đó chú trọng thay đổi tư duy sản xuất thành kinh tế nông nghiệp, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp số, bảo đảm sản xuất theo hướng chuỗi.

Bảo đảm môi trường xanh, sạch, đẹp, hạ tầng hiện đại và khả năng cung các cấp dịch vụ, phát huy lợi thế địa phương, duy trì tính đa dạng vùng miền, dân tộc khai thác tiềm năng các lĩnh vực, hình thành không gian phát triển liên địa phương, liên vùng.

Nâng cao hiệu quả của nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật trong đó có sự tham gia của các thành phần kinh tế, thúc đẩy quá trình tham gia hiệu quả của NN nông dân nông thôn vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Về tài nguyên và môi trường, cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chủ động ứng phó với BĐKH, quản lý, khai thác bền vững và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và BVMT. Phải tăng cường tính công khai, minh bạch; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ; giao quyền khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cơ chế thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH.

 

4.2. Nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá

 

Về môi trường nông thôn, nông nghiệp:

- Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, thể chế, các bộ tiêu chí đánh giá môi trường phù hợp hơn với thực tiễn không chỉ về các giải pháp xử lý chất thải mà cần chú trọng về các giải pháp chính sách về kinh tế tuần hoàn, các giải pháp sản xuất sạch hơn nhằm giảm phát thải ngay từ đầu vào của quá trình sản xuất. Nghiên cứu xây dựng các chính sách dựa trên áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý và chịu trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật”, “người hưởng lợi từ môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường” đảm bảo tính công bằng cho người dân trong công tác bảo vệ môi trường.

- Thứ hai, tăng cường công tác quy hoạch, định hướng tại các địa phương; tổ chức lập và triển khai có hiệu quả quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, nội dung bảo vệ môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, trong đó có việc phân vùng môi trường để có những giải pháp tổng hợp trong bảo vệ môi trường, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách, từ xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường. Các khu làng nghề, cụm khu công nghiệp cần phải được thiết kế và quy hoạch hợp lý, đảm bảo các khoảng cách với các khu dân cư theo quy định và cần phải quy hoạch các hệ thống xử lý chất thải tập trung cho khu dân cư và các cụm khu công nghiệp, làng nghề trên địa bản.

- Thứ ba, nghiên cứu xây dựng và triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh tại các làng nghề, phát huy được thế mạnh tại địa bàn của người dân sinh sống, các công nghệ lựa chọn trong mô hình cần phải hướng tới sản xuất sạch và xanh, sử dụng tối ưu nguyên nhiên liệu và giảm phát thải ra môi trường. Các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh hiệu quả phù hợp với thực tiễn có thể là những giải pháp đột phá thay đổi toàn diện môi trường nông thôn từ việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường nông thôn, sản xuất sạch hơn và tạo ra các giá trị hàng hóa đảm bảo thu nhập kinh tế cho người dân nông thôn. Làm tốt công tác giảm thiểu, phân loại tại nguồn, thu gom và xử lý chất thải rắn phát sinh từ hoạt động nông nghiệp, chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn nông thôn, trong đó chú trọng tận dụng tối đa giá trị của chất thải, tạo nguồn nguyên liệu trở lại cho các mô hình kinh tế bền vững.

- Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, lấy người nông dân làm chủ thể, trao quyền và trách nhiệm cho người dân quản lý và bảo vệ môi trường tại khu vực sinh sống và sản xuất; tiếp tục phát động các phòng trào thi đua bảo vệ môi trường.

- Thứ  năm, đưa ra các giải pháp thu hút và huy động hiệu quả nguồn lực trong bảo vệ môi trường nông thôn trong đó cần quy định rõ ràng hơn trong việc phân bổ kinh phí cho các tiêu chí về bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, cần đẩy mạnh, khuyến khích xã hội hóa, huy động tối đa sự quan tâm và tham gia của các doanh nghiệp, cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường và xử lý chất thải.

 

 

Về thích ứng với BĐKH:

- Trong thời gian tới, bên cạnh thực hiện các giải pháp giảm nhẹ để đảm bảo các cam kết quốc tế, tiếp tục triển khai các giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu vẫn là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu như Việt Nam, nhằm ứng phó với những diễn biến phức tạp và ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu gây ra. Các giải pháp giảm nhẹ phải được tiến hành song song hài hòa với các giải pháp thích ứng và phải được lồng ghép trong các chiến lược phát triển kinh tế xã hội bền vững và cần phải coi ứng phó biến đổi khí hậu là cơ hội là động lực để chuyển đổi nền kinh tế theo hướng hiện đại theo hướng các bon thấp.

- Ngành nông nghiệp cần phải xây dựng được các chiến lược, kế hoạch cùng các giải pháp đột phá có lộ trình cụ thể nhằm chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và thực hiện các cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, đồng thời đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững của ngành. (sản xuất lúa gạo hiện nay đóng góp khá vào GDP của Việt Nam, tuy nhiên tổng lượng phát thải do canh tác lúa chiếm khoảng 50% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp - Báo cáo kiểm kê khí nhà kính Việt Nam, 2010). Bên cạnh chú trọng thay đổi canh tác, cơ cấu mùa vụ cần phải chú trọng các giải pháp ứng dụng các công nghệ hiện đại, các giải pháp tiên tiến ít phát thải trong canh tác lúa. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng quy mô lớn gắn với dịch vụ cần phải được đẩy mạnh và triển khai rộng khắp trên toàn quốc thay cho hướng sản xuất nông nghiệp truyền thống manh mún thiếu hiệu quả, phát thải cao. Các giải pháp xử lý phụ phẩm nông nghiệp cần phải được quan tâm chú trọng, hạn chế việc sử dụng các công nghệ thô sơ, khuyến khích các giải pháp sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và phân trong chăn nuôi làm phân hữu cơ sử dụng lại trong sản xuất. Đối với nuôi trồng, khai thác thủy hải sản cần phải được chuyển đổi theo hướng các bon thấp, tăng cường hiệu quả sinh kế của người dân; đổi mới, ứng dụng các tiến bộ khoa học trong nuôi trồng thủy hải sản kết hợp với việc sử dụng hiệu quả các thông tin thời tiết, khí hậu;  Các phương tiện đánh bắt hải sản cần phải được hiện đại hóa, theo hướng sử dụng năng lượng hiệu quả vừa giảm phát thải khí nhà kính vừa tăng năng suất đánh bắt.

- Người nông dân phải được trang bị các thông tin, kiến thức về biến đổi khí hậu về thời tiết và ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, các phương tiện canh tác mới tiên tiến, sử dụng hiệu quả vật tư nông nghiệp bảo đảm năng suất, phát thải ít các bon và metan và thân thiện với môi trường. Đặt ra yêu cầu tăng hiệu quả quản lý nước và các giải pháp canh tác nhằm giảm các yếu tố đầu vào, thay đổi đầu vào và tăng hiệu quả kinh tế, tăng chất lượng môi trường nông nghiệp.

Về phòng, chống thiên tai:

- Đẩy mạnh công tác dự báo phục vụ trong đó lấy dự báo tác động đến các chủ thể, hướng dẫn thực hành bền vững theo từng kịch bản làm trọng tâm bảo đảm mọi người dân chủ động nắm bắt, thực hành sản xuất bền vững.

- Phát triển công tác giám sát đánh giá, đặc biệt giám sát đánh giá bảo đảm mục tiêu giảm phát thải theo cam kết của chính phủ đối với từng ngành, địa phương, lĩnh vực và đến từng khu vực công đoạn của sản xuất.

- Nâng cao năng lực quan trắc, dự báo và cảnh báo khí tượng thuỷ văn; tăng cường các hệ thống giám sát, dự báo thời tiết và khí hậu kịp thời; cải thiện các hệ thống quản lý rủi ro thiên tai hiện có để giảm thiểu khả năng dễ bị tổn thương và tăng mức độ sẵn sàng đối phó với các hiện tượng khí hậu cực đoan. Vì thông tin, dữ liệu KTTV cần phải được xác định đúng với tính chất thực tế là nguồn tài nguyên số, một trong những dữ liệu “đầu vào” quan trọng để xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của các ngành, địa phương

- Tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của hệ thống tự nhiên và xã hội trước các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu; Triển khai các giải pháp thích ứng nhằm giảm thiểu thiệt hại gây bởi các tác động liên quan đến những thay đổi của khí hậu trong tương lai

- Lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chính sách, chiến lược, chương trình, dự án có liên quan, đặc biệt là trong việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các Bộ, ngành và địa phương

 

5. Kết luận, kiến nghị

5.1 Kết luận

Ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề ngày càng nghiêm trọng trên nhiều mặt: ô nhiễm nước, ô nhiễm môi trường đất, ô nhiễm không khí, suy giảm các hệ sinh thái,... đã và sẽ gây ra những thiệt hại ngày càng lớn, những hậu quả ngày càng nghiêm trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam gây mất cân bằng sinh thái; suy thoái chất lượng rừng và mất chức năng phòng hộ; gia tăng ô nhiễm môi trường và vấn đề an toàn thực phẩm; gia tăng hạn hán, thoái hóa đất và vấn đề an ninh lương thực; cạn kiệt nguồn tài nguyên và gia tăng các xung đột môi trường; gây nên các mối đe dọa an ninh sinh thái và an ninh môi trường xuyên biên giới; gia tăng tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường để phát triển kinh tế - xã hội là thách thức lớn đối với đất nước ta trong thời gian tới.

Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đe dọa tới phát triển bền vững, đặc biệt an ninh lương thực của các quốc gia trên thế giới. Ngoài các cam kết thực hiện các mục tiêu giảm phát thải trong NDC, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050. Thêm vào đó, Việt Nam cũng đã cùng hơn 109 quốc gia tham gia trong Cam kết giảm phát thải metan toàn cầu với mức cắt giảm 30% năm 2030, đồng nghĩa với việc phải thực hiện cắt giảm mạnh mẽ trong 3 lĩnh vực phát thải khí metan chủ yếu là nông nghiệp, rác thải và năng lượng.

Hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp, suy thoái các nguồn tài nguyên đang xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt là tài nguyên đất đai, động lực phát triển giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, đang được sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, đứng trước nguy cơ suy thoái, chính sách về đất đai pháp luật về đất đai chưa theo kịp cơ chế thị trường và yêu cầu phát triển. Tài nguyên nước mặt trong đó nguồn nước ngoại sinh chiếm tới 63% tổng lượng nước bề mặt nên những tác động không chỉ liên quan đến nội tại địa phương mà còn mang tính liên quốc gia, cần có cách tiếp cận đa ngành, liên vùng.

Khu vực nông nghiệp nông thôn hiện nay tăng trưởng chậm lại, chưa bền vững, nhiều đầu vào sản xuất phụ thuộc vào thị trường nhập khẩu, bảo quản chế biến kém, tổn thất trước, trong và sau thu hoạch còn cao, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị còn hạn chế, thị trường bất ổn. Mặc dù, công tác phòng chống thiên tai đã được quan tâm và đầu tư, hiện đại hóa chuyển dần sang chủ động phòng ngừa xong việc sản xuất hiện nay, đứng trên quan điểm bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai cùng với sản xuất theo chuỗi, sản xuất hàng hóa thì người nông dân nói riêng và nông thôn nói chung vẫn còn gặp nhiều rủi ro cần tiếp tục có các định hướng, chiến lược trong thời kỳ mới để bảo đảm tính bền vững.

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn đóng vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, là trụ đỡ của nền kinh tế, ổn định xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh quốc gia. Nông dân là trung tâm và giữ vai trò chủ thể. Ngoài khai thác, phát huy lợi thế vùng, miền, lĩnh vực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cần chú trọng thay đổi tư duy sản xuất thành kinh tế nông nghiệp, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ mới, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp số, bảo đảm sản xuất theo hướng chuỗi, bảo đảm môi trường xanh, sạch, đẹp, hạ tầng hiện đại và khả năng cung các cấp dịch vụ, duy trì tính đa dạng vùng miền, dân tộc khai thác tiềm năng các lĩnh vực, hình thành không gian phát triển liên địa phương, liên vùng.

 

5.2 Kiến nghị

Trên quan điểm KTTV và bảo vệ MT sinh thái, ngoài bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống, cần phải nâng cao được chất lượng đời sống người dân, phát huy lợi thế từng vùng, từng khu vực, lợi thế khí hậu quốc gia trong đó:

+ Đánh giá lại lợi thế khí hậu trong bối cảnh mới, tái cơ cấu nông nghiệp nông thôn, phát huy vai trò của cộng đồng có sự tham gia của người dân; đánh giá đúng vị trí, vai trò của các vấn đề môi trường trong nông nghiệp, nông dân và nông thôn để có sự quan tâm đầu tư thích đáng cho hạ tầng kỹ thuật về bảo vệ môi trường, tập trung vào xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề, cụm công nghiệp; thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; xử lý nước thải sinh hoạt từ khu vực nông thôn.

+ Đánh giá và sử dụng đúng lợi thế khí hậu địa phương, tạo ra các vùng sản xuất tập trung, quy mô, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất theo chuỗi, bền vững và an toàn, đồng thời hướng tới giảm phát thải khí nhà kính theo cam kết của chính phủ.

+ Thống nhất toàn quốc hệ thống cơ sở dữ liệu về tài nguyên khí hậu quốc gia, thông tin thời tiết bảo đảm hỗ trợ cho sản xuất đồng thời truy xuất nguồn gốc, đánh giá và ước tính sản lượng mùa màng theo thời gian thực bảo đảm tính pháp lý cho nông nghiệp.

+ Tạo hành lang, cơ chế phối hợp liên bộ, ngành, đơn vị để tổ chức sản xuất hướng đến các thị trường quốc tế.

+ Bảo đảm công tác dự tính dự báo tác động của điều kiện tự nhiên đối với từng khâu, từng lĩnh vực của sản xuất, trên cơ sở lấy người dân làm chủ thể, việc dự tính dự báo cần đi theo hướng dự báo tác động, dự báo điểm và hướng dẫn thực hành tốt trong sản xuất.

 

GS.TS Trần Hồng Thái*

Và nhóm tác giả**

 


 



* Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng, thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

** TS. Ngô Tiền Giang, PGS. TS Mai Văn Khiêm, TS. Đỗ Tiễn Anh, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết