Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Tiếp tục hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Ngày phát hành: 21/06/2019 Lượt xem 3990


Thực hiện định hướng bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng trong 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011 vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Kế thừa, phát triển và tiếp tục hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là vấn đề hết sức bức thiết và căn cốt nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. Để thực hiện nhiệm vụ hệ trọng này, phải nắm vững những định hướng bảo vệ Tổ quốc do Cương lĩnh của Đảng đã xác định, nhận định rõ tình hình và những vấn đề đặt ra, từ đó từng bước hoàn thiện định hướng đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

I. Định hướng bảo vệ Tổ quốc do Cương lĩnh 2011 của Đảng đề ra

Cương lĩnh 2011 của Đảng đã khẳng định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[1].

Trên cơ sở xác định rõ định hướng và mục tiêu nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh như vậy, Cương lĩnh 2011 còn cụ thể hóa với những nội dung hết sức rõ ràng như sau:

Thứ nhất, xác định rõ trách nhiệm và lực lượng thực hiện định hướng bảo vệ Tổ quốc: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân, chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”[2].

Thứ hai, chỉ rõ những yếu tố và cách thức triển khai để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng – an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng – an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng – an nh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”[3].

Thứ ba, xây dựng lực lượng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, Cương lĩnh 2011 chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu…”. “Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại”[4].

Thứ tư, xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng – an ninh”[5].

II. Quá trình phát triển nhận thức và thực tiễn thực hiện định hướng bảo vệ Tổ quốc

1. Về nhận thức

1) Nhận thức về định hướng bảo vệ Tổ quốc của Đảng có sự đổi mới và ngày càng hoàn thiện.

Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta định hướng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách toàn diện: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”[6].

Đến Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và sau đó là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, định hướng bảo vệ Tổ quốc được nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn: xác định bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XI của Đảng đã đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển đảo” và “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đồng thời nhấn mạnh “an ninh chủ động”.

Đại hội XII của Đảng đã nâng tầm nhận thức, coi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn là : “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”[7].

Nếu như trong Cương lĩnh chủ trương “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế” thì Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh thêm: “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đọt từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát động sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”[8].

2) Nhận thức về tăng cường sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc

Nhận thức của Đảng ngày càng rõ hơn về sức mạnh và lực lượng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó là sức mạnh cả khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt. Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chủ trương: “xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng; vững về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”[9].

3) Xác định ngày càng rõ hơn các nhiệm vụ cụ thể để bảo vệ Tổ quốc

Nhận thức của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đã ngày càng sâu sắc, toàn diện, đồng bộ, xác định rõ nhiệm vụ cụ thể của toàn Đảng, toàn dân, tất cả các ngành, các lĩnh vực, lực lượng vũ trang và các địa phương, đơn vị. Trong quá trình đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới và các thủ đoạn chống phá mới của thế lực thù địch, nhận thức của Đảng đã kịp thời được bổ sung, phát triển. Đảng đã nhận thức đầy đủ, rõ ràng; cụ thể hơn về nội dung, phương thức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, coi đó là những hoạt động thường xuyên. Đảng chỉ rõ, phải xây dựng lực lượng lớn mạnh, sẵn sàng đấu tranh với các thế lực thù địch trong mọi tình huống: xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biển đạo, biên giới, gây rối, biểu tình, bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, lật đổ, ly khai; đấu tranh thường xuyên chống các tư tưởng, hành động sai trái với đường lối, quan điểm của Đảng; phòng, chống “diễn biến hòa bình” và những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch.

4) Nhận thức về đối tác, đối tượng là tư duy mới có tính đột phá

Cùng với việc định hướng phương thức bảo vệ Tổ quốc là kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh phi vũ trang và đấu tranh vũ trang, kết hợp xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ; nhận thức của Đảng về đối tác, đối tượng có bước phát triển mới, có cách nhìn biện chứng, chuyển từ tư duy bạn, thù sang tư duy đối tác, đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc là bước đột phá, thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác, xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi, đồng thời đấu tranh vớ đối tượng, với mặt đối tượng.

Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI chỉ rõ: Để phát huy thuận lợi, hạn chế thách thức, cần có cách nhìn mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực thù địch nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.

5) Cụ thể hóa về vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang

Để tạo sức mạnh tổng hợp cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhân tố quan trọng hàng đầu để lực lượng vũ trang thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ chính là phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng hùng mạnh, Đảng chủ trương tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và từng người dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

2. Về thực tiễn

Theo định hướng trong Cương lĩnh của Đảng, cốt lõi của việc bảo vệ Tổ quốc chính là việc gắn chặt chẽ giữa bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Thực chất của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là bảo vệ chế độ xã hội đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đã đạt được những cơ sở, những nền tảng tương đối vững chắc, nhưng vẫn còn nhiều mặt yếu kém không dễ giải quyết và khắc phục một sớm một chiều. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu nổi bật:

Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện của Nhà nước, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững hòa bình ổn định và phát triển; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, quan hệ đối ngoại được tăng cường, hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng vào đi vào chiều sâu; thế và lực của Việt Nam ngày càng được tăng cường.

Hai là, củng cố, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Công tác tư tưởng, lý luận được chú trọng, tăng cường việc tổng kết thực tiễn, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do thực tiễn đặt ra; kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch; giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ Tổ quốc, nhân dân, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; kìm chế được lạm phát, qui mô nền kinh tế tăng lên. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân cơ bản được ổn định.

Bốn là, sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc. Mối quan hệ đối ngoại được mở rộng và đi vào chiều sâu góp phần tạo thế và lực mới của đất nước để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Năm là, sức mạnh tổng hợp, khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lực lượng vũ trang đã nâng cao tinh thần chiến đấu và khản năng sẵn sàng chiến đấu; các quân chủng, binh chủng trong Quân đội và các lực lượng trọng yếu của Công an đã được củng cố, tăng cường; các vũ khí, khí tài được nâng cấp và trang bị tốt hơn; một số quân chủng, binh chủng của Quân đội và một số lực lượng tinh nhuệ của Công an đã phát triển theo hướng chính quy, tinh nhuệ và đi thẳng tới hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được quan tâm và cải thiện đáng kể. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của đội quân cách mạng, đoàn kết nhất trí cao trong nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế cao cả, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ.

III. Những vấn đề đặt ra

Trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, tình hình chung cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp chủ quyền biển đảo, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn biến phức tạp. Trong khi đó, tình hình thế giới, khu vực đang có những biến động hết sức phức tạp, nhanh chóng, khó lường; tình hình biển Đông có những khó khăn, thách thức mới. Tất cả tình hình đó đặt ra đối với việc triển khai và tiếp tục hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới nhiều vấn đề hệ trọng.

Thứ nhất, định hướng bảo vệ Tổ quốc đã được Cương lĩnh và các văn kiện, Nghị quyết của Đảng đặt ra hết sức rõ ràng, chuẩn xác nhưng khó khăn nhất trong việc thực hiện lại là giải quyết, xử lý các tình huống diễn ra trên thực tế.

Căn cứ vào tình hình chung có thể dự báo một số tình huống như (1) Diễn biến hòa bình, bạo loạn chính trị, “cách mạng màu” phát triển thanh bạo loạn vũ trang, can thiệp quân sự, lật đổ. (2) Xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc, xâm chiếm biển đảo, biên giới bằng các biện pháp phi vũ trang hoặc vũ trang với những mức độ khác nhau. (3) Chiến tranh biển đảo, biên giới. (4) Chiến tranh trên vùng trời. (5) Chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng. (6) Các tình huống an ninh phi truyền thống. (7) Chiến tranh công nghệ cao. (8) Chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Các tình huống như vậy có thể xảy ra trong một hoặc vài tình huống, đòi hỏi phải tiếp tục tính đến các giải pháp cụ thể khi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được triển khai như thế nào trong khi phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu mới. Việc điều chỉnh luật pháp của nước ta sao cho tương thích với luật pháp và thông lệ quốc tế; việc thực hiện những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, việc thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng mạnh mẽ đều có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy khi triển khai đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và cụ thể hóa là phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc gặp nhiều trở ngại phức tạp cần được quan tâm đúng mức và xử lý kịp thời.

Thứ ba, việc đối phó với chiến tranh công nghệ cao đang trở thành vấn đề nổi cộm

Từ các cuộc chiến tranh ở Irac, Cosovo, Apganistan, Syria, vũ khí công nghệ cao ngày càng được sử dụng phổ biến. Các cuộc chiến tranh tiếp theo trên thế giới chắc chắn vũ khí công nghệ cao sẽ được tiếp tục triển khai. Đã vậy, cuộc cách mạng cong nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) làm xuất hiện các công nghệ mới được ứng dụng vào mục đích quân sự như trí tuệ nhân tạo, rô-bốt hóa, công nghệ hóa sinh làm cho các loại vũ khí mới xuất hiện với tính năng, tác dụng vô cùng nguy hại, khó lường. Với sự xuất hiện và tham gia của nhiều binh chủng, lực lượng mới làm cục diện chiến trường thay đổi, chiến trường không giới hạn, không phân biệt rõ hậu phương, tiền tuyến, thời gian chiến tranh, tiêu thụ nhiều khí tài, vật chất, tổn thất sẽ vô cùng lớn. Trong khi đã có những cơ chế kiểm soát vũ khí hạt nhân, thì những loại vũ khí công nghệ mới có tác động gây hậu quả không hề thua kém nhưng chưa có bất cứ giải pháp nào để kiểm soát. Chiến tranh kiểu mới, chiến tranh công nghệ cao cũng làm gia tăng sự chênh lệch về sức mạnh quân sự giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển.

Thứ tư, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Lãnh thổ Việt Nam gần vùng đất liền, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, đảo, quần đảo, bãi đá ngầm thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán. Biển Đông của nước ta là khu vực có vị trí chiến lược rất quan trọng về quốc phòng, an ninh và kinh tế; là một trong những tuyến hàng hải huyết mạch và nhộn nhịp nhất thế giới; là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, nguồn lợi thủy sản dồi dào, tiềm năng du lịch phong phú. Do có vị trí đặc biệt như vậy, Biển Đông đang trở thành mục tiêu chú ý của nhiều nước lớn, là một trong những điểm nóng nhất trên thế giới hiện nay. Biển Đông nằm trọn trong “chiến lược Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương” của Mỹ và ý đồ độc chiếm của Trung Quốc. Các nước khác như Nga, Nhật Bản, Oxtraylia… vì các tham vọng kinh tế, chính trị khác nhau, đã và đang tìm mọi cách can thiệp sâu vào địa bàn chiến lược này, khiến tình hình Biển Đông vốn đã phức tạp, càng trở nên phức tạp hơn và không loại trừ khả năng diễn ra xung đột vì những lợi ích khác nhau giữa các nước với nhau và giữa một vài nước với nước ta. An ninh chủ quyền biển đảo trên Biển Đông bị đe dọa và đặt ra vấn đề hết sức bức thiết đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của chúng ta.

IV. Một số vấn đề góp phần hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết, kiên trì thực hiện đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho việc thực hoàn thiện định hướng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất có ý nghĩa quyết định đến thành bại của việc thực thi định hướng bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học, nhạy bén, Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Nhờ đó, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội để xây dựng và phát triển đất nước. Những nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đã được hoàn thành tốt đều bắt nguồn từ đó; những nhiệm vụ nào thực hiện chưa thật thấu đáo có nguyên nhân từ việc chưa thực hiện đầy đủ và thấu đáo những định hướng bảo vệ Tổ quốc của Đảng đã đề ra.

Thứ hai, bổ sung một số khía cạnh về phương châm bảo vệ Tổ quốc.

Phương châm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc là vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để xác định đúng mục tiêu, phương thức, cách thức để bảo vệ sự bất khả xâm phạm của quốc gia, bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những nội dung trọng yếu cần được bổ sung thêm là: nắm chắc tình hình và giải quyết đồng bộ các vấn đề do thực tiễn đặt ra; dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, tình hình trong nước và từng địa bàn cụ thể; nhận rõ các thách thức quốc phòng, an ninh, các tình huống xảy ra; đưa ra các định hướng hành động chính xác, kịp thời, linh hoạt để đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động. Mục tiêu tối ưu của việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chính là ngăn ngừa đẩy lùi và đập tan các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống.

Thứ ba, cùng với việc bảo đảm ổn định chính trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cần tăng cường công tác tư tưởng trong toàn Đảng và trong xã hội.

Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức rõ và vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động nguy hại của các thế lực thù địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và cho toàn dân. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn. Chủ động trong cuộc đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân tham gia.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần cả xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu. Giải quyết hợp lý, hài hòa việc phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm kinh tế - xã hội đất nước với xây dựng nền quốc phòng toàn dân và Công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Thứ tư, bổ sung định hướng về phương thức tác chiến để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đối phó kịp thời với chiến tranh kiểu mới, chiến tranh công nghệ cao.

Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc sự phát triển của các hình thức chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới. Nghiên cứu, giải quyết đồng bộ các vấn đề chiến lược, từ quan điểm, nguyên tắc, phương thức và nội dung, cách thức tác chiến. Trên cơ sở đó tập trung tổ chức xây dựng lực lượng vũ khí trang bị, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh đi thẳng vào hiện đại và ứng dụng công nghệ cao, nghiên cứu sản xuất các trang bị, vũ khí hiện đại của Việt Nam để ứng phó với tình hình.

Trong điều kiện mới, cũng cần khẳng định: chiến tranh nhân dân phát triển vẫn là phương thức hữu hiệu để đối phó với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới, trang bị vũ khí hiện đại là quan trọng, không thẻ thiếu nhưng vấn đề trọng yếu và cốt tử vẫn là nhân tố con người. Cần bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị, trình độ nắm bắt khai thác, làm chủ khoa học, công nghệ, vũ khí trang bị hiện đại. Chú trọng hiện đại hóa, trí tuệ hóa nguồn nhân lực của lực lượng vũ trang. Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ và có những giải pháp hữu hiệu phòng chống chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới.

Thứ năm, xác định rõ thêm về đối tác, đối tượng, đồng minh.

Để xác định rõ thêm về đối tác, đối tượng, đồng minh, trước hết phải tuân thủ nghiêm các nguyên tắc. Tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, phục vụ lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc; nâng cao cảnh giác, bảo đảm bí mật quốc gia.

Việc xác định đối tượng không nêu rõ đích danh mà thông qua mô tả nội dung, hành động để nhận thức cho đúng. Các đối tượng cơ bản gồm: (1) Thế lực hiếu chiến, đồng minh và tay sai là đối tượng cơ bản, lâu dài. (2) Thế lực nước lớn có tham vọng, hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia của Việt Nam và chư hầu là đối tượng trực tiếp, nguy hiểm, lâu dài. (3) Tổ chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo đức sẵn sàng câu kết, tiếp tay cho thế lực bên ngooài, là đối tượng nguy hiểm.

Trên cơ sở như vậy phải vừa xác định một cách khách quan, toàn diện về đối tượng bên ngoài trong từng tình huống, vừa chỉ rõ sự nguy hiểm của đối tượng bên trong. Phải cảnh giác, nắm rõ tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, hành động của đối tượng; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tranh thủ mặt đồng thuận, hạn chế mặt đối lập, thêm bạn, bớt thù, tránh bị cô lập, kịp thời ngăn chặn và phá vỡ những liên minh gây chiến tranh xâm lược đất nước.

Về vấn đề đồng minh, liên minh. Cần xác định rõ, trong sự cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, một mặt, chúng ta kiên định chính sách “ba không”, thêm bạn, bớt thù; hài hòa quan hệ với các nước lớn, thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược. Mặt khác, chúng ta đẩy mạnh hợp tác đi vào chiều sâu với một số đối tác chiến lược toàn diện, xây dựng và thực hiện những cam kết đặc biệt quan trọng liên quan đến bảo vệ Tổ quốc.

Thứ sáu, bổ sung về định hướng bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Trước hết cần xác định nguyên tắc: Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và mọi mặt của Đảng, thường xuyên trực tiếp là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước;sự tham gia của toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò then chốt.

Để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, cần đẩy mạnh tuyên truyên, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao và tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Xây dựng Quân chủng Hải quân, Phòng không không quân, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có trang bị vũ khí phương tiện tiên tiến, hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, công tác của lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển đảo của Tổ quốc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển; thành lập lực lượng dân quân trên biển; củng cố xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên các đảo và trên đất liền.

Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao, nhận thức đạo đức cách mạng, kiến thức quốc phòng, an ninh, ngoại ngữ, trình độ kỹ thuật, chiến thuật tác chiến cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng nghiên cứu, nắm và dự báo sớm, sát, đúng tình hình để chủ động tham mưu xử lý các tình huống kịp thời, hiệu quả.

Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong bảo vệ chủ quyền, biển đảo./.

   

 

                                                                                                                                                            GS.TS Vũ Văn Hiền

                                                                                                                          Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.81.

[2] Sđd, tr.82.

[3] Sđd, tr.83.

[4] Sđd, tr.83.

[5] Sđd, tr.83.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.51, tr.142.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, 2016, tr.148

[8] Sđd, tr.149

[9] Sđd, tr.149

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết