Học thuyết cách mạng, khoa học của Lênin là tài sản vô giá của nhân loại, là cơ sở để giải quyết nhiều vấn đề của thời đại, của thế giới và của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Di sản mà V.I.Lênin để lại là cả một kho tàng quý báu, có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, trong đó những chỉ dẫn về đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng vẫn mang đậm tính thời sự, vô cùng có ý nghĩa thiết thực cho chúng ta hôm nay.
Tư tưởng của V.I.Lênin về quan liêu, tham nhũng là một hệ thống bao gồm nhiều luận điểm, quan điểm khác nhau, đề cập đến những vấn đề lý luận căn bản, cốt yếu, đồng thời cũng bao hàm cả những giải pháp, biện pháp cụ thể trong chỉ đạo thực tiễn. Tựu trung lại, có thể phác họa những nét đặc sắc như sau:
V.I.Lênin thẳng thắn thừa nhận sự tồn tại, hiện hữu của tệ quan liêu trong bộ máy Chính quyền Xôviết, điều này là do tác động của hoàn cảnh bên ngoài và sự thiếu tự giác tu dưỡng, rèn luyện nên đạo đức xuống cấp, không còn giữ được vai trò tiên phong, gương mẫu của một số đảng viển cộng sản. Lênin nhận diện rất rõ bản chất của quan liêu, tham nhũng và những biểu hiện của nó trong đời sống. Trong Lênin, quan liêu chính là “chủ nghĩa địa vị”, chỉ quan tâm đến địa vị, vị trí của mình mà không quan tâm đến công việc một cách cứng nhắc, chăm chăm tới tư lợi mà không đếm xỉa đến lợi ích của nhà nước, của nhân dân và xã hội. Người viết: “Chủ nghĩa quan liêu, tức là đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm xỉa đến công tác; tức là tranh giành nhau để được bổ tuyển… Một thứ chủ nghĩa quan liêu như thế quả thật là hoàn toàn không nên có đối với đảng và có hại cho đảng…”[1], Người cũng chỉ rõ những biểu hiện của quan liêu như tư tưởng danh vị, chủ nghĩa cơ hội, quá chú trọng vào hình thức, không quan tâm đến hoạt động thực tiễn, tác phong làm việc lề mề, vụn vặt..: “Chủ nghĩa cơ hội là hy sinh những lợi ích bền vững và lâu dài của giai cấp vô sản cho những lợi ích hào nhoáng, bề ngoài và chốc lát của nó”[2]. Đối với tham nhũng, Lênin cũng nhận thức rất rõ, tham nhũng đi liền với quan liêu, là lợi dụng vị trí công tác để làm lợi cho cá nhân. Trong tác phẩm “Thà ít mà tốt”, Lênin chỉ rõ, trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới, cùng với quan liêu, tệ nạn hối lộ phát triển, trở thành phổ biến.
Người cho rằng cả quan liêu và tham nhũng đều gắn với quyền lực bị tha hóa, chúng đều có chung bản chất là lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để tư lợi cá nhân, sống ích kỷ, ăn bám, trên sức lao động của người khác. Nguyên nhân của quan liêu, tham nhũng bắt nguồn từ tư tưởng thích chức quyền, ham địa vị, ham lợi, ham giàu sang phú quý, “ăn trên ngồi trốc”, v.v.. của một tầng lớp gồm những người trong ngành hành chính có chức, có quyền, được hưởng một địa vị đặc quyền so với nhân dân. Người cũng nhận diện quan liêu, tham nhũng có thể xảy ra ở mọi cấp, không loại trừ một ai, ở cương vị nào, nó cũng được thể hiện ở nhiều mức độ, quy mô khác nhau: “Hiện giờ có ba kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào… kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ”[3],
Lênin cũng chỉ rõ tính nguy hại của tệ quan liêu, tham nhũng vì nó làm suy yếu Đảng, làm suy giảm quyền lực nhà nước, gây ảnh hưởng đến uy thế, thanh danh của Đảng và Nhà nước, dễ tạo ra nguy cơ biến bộ máy chính quyền và các tổ chức Đảng trở thành bộ máy quan liêu mới, xa rời lợi ích của Đảng, của nhân dân. Tệ quan liêu, tham nhũng khiến nhiều cán bộ, đảng viên bị tha hóa, trở thành những kẻ chuyên quyền, độc đoán, thành những “đảng viên cộng sản huênh hoang”, thậm chí nó có thể phá hủy một chính Đảng, làm tiêu vong một chế độ. Người nói “Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó (tệ quan liêu, tham nhũng)[4]. Do vậy, Lênin nhận thức rất rõ một chính Đảng chỉ có thể tồn tại, phát triển và giữ vững được vai trò lãnh đạo một khi Đảng đó thường xuyên phòng chống quan liêu, tham nhũng, nhưng người cũng xác định rất rõ, đó là cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, khó khăn “Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đòi hỏi hàng chục năm. Đây là cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn”[5]; đó cũng là cuộc đấu tranh toàn diện, hệ thống trên nhiều lĩnh vực: “cần phải tiến hành một công tác lớn lao về giáo dục, tổ chức, văn hóa”; “Không thể nào chỉ dùng pháp luật mà hoàn thành nhanh chóng được, nó đòi hỏi một công tác lớn lao và lâu dài”[6] Để phòng, chống quan liêu, tham nhũng cần phải có thái độ dứt khoát, kiên quyết và không có vùng cấm trong cuộc chiến này: “Bất cứ biểu hiện nào của thái độ quan liêu dù nhỏ đến đâu cũng sẽ bị trừng phạt”[7].
Để phòng chống quan liêu, tham nhũng, trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn, Lênin đã đưa ra nhiều giải pháp, biện pháp khác nhau, nổi bật là:
Trước hết, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong Đảng để ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ luật của Đảng. Việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên, nghiêm túc đối với các công việc của Đảng, Nhà nước sẽ góp phần hạn chế các kẻ lợi dụng quyền lực để đục khoét của cải của nhân dân. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng sẽ góp phần sửa chữa, uốn nắn công việc, ngăn ngừa thiếu sót và sai lầm. Thanh tra, kiểm tra sẽ góp phần đấu tranh "chống chủ nghĩa quan liêu, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng"[8].
Thứ hai, để phòng, chống quan liêu, tham nhũng, Lênin rất coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy, thực hành dân chủ rộng rãi, cuốn hút, lôi cuốn nhân dân tham gia vào các công việc của Đảng, của Nhà nước. Người chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh chống sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa đối với tổ chức Xô viết, được đảm bảo bởi tính vững chắc của những mối liên hệ gắn liền các Xô viết với “nhân dân”, nghĩa là với những người lao động”. Người đã nhiều lần nhắc nhở các cấp uỷ, tổ chức đảng và Chính quyền Xô viết, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải thường xuyên chăm lo thu hút đông đảo quần chúng lao động trực tiếp tham gia phòng, chống quan liêu, tham nhũng, chỉ có thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào việc quản lý đất nước và giám sát rộng rãi mọi cơ quan quản lý mới xoá bỏ được những thiếu sót của bộ máy, làm cho các cơ quan loại trừ được bệnh quan liêu. Người cũng yêu cầu cần phải thường xuyên tiếp dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải xây dựng “quy chế về ngày giờ mở cửa tiếp công chúng cần phải được yết thị ở từng cơ quan”; phải làm sao để người dân được tạo thuận lợi, dễ dàng trong việc giám sát các đảng viên, các cơ quan công quyền một cách “tự do, không cần có giấy phép” và “không mất tiền”.
Thứ ba, một trong những giải pháp mà Lênin cũng coi trọng để phòng chống quan liêu, tham nhũng là tăng cường kỷ luật trong Đảng, thực hiện kỷ luật đảng viên nghiêm khắc trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người viết: "Để chống lại những tính xấu đó, để làm cho giai cấp vô sản có thể thực hiện được một cách đúng đắn vai trò tổ chức của nó (và đó là vai trò chính của nó), một cách có kết quả và thắng lợi thì chính đảng của giai cấp vô sản phải thực hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt"[9]. Vi phạm kỷ luật - cũng có nghĩa là phản bội lại Đảng: "Kẻ nào làm yếu - dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt trong Đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong thời kỳ chuyên chính của nó) là thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản"[10]. Theo Lênin, phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng, khỏi bộ máy nhà nước những kẻ quan liêu, tham nhũng: “Tôi rất mong chúng ta có thể đuổi ra khỏi đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này”[11]. Người cũng yêu cầu phải xử thật nặng, nghiêm khắc những kẻ tham nhũng, ăn hối lộ trong Đảng, trong Nhà nước để nêu gương. Trong bức thư gửi trước sự việc Tòa án Mátxcơva xử nhẹ một vụ ăn hối lộ, Người viết: “Không xử bắn bọn ăn hối lộ mà xử nhẹ như thế là một việc xấu hổ cho những người cộng sản”. V.I. Lênin yêu cầu phải “lay động các tòa án nhân dân và dạy cho họ biết trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn, và nhanh chóng những kẻ lạm dụng chính sách kinh tế mới”[12] ; “Đối với người cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài đảng”[13].
Thứ tư, theo Lênin, để hạn chế, khắc phục căn bệnh quan liêu, tham nhũng, cũng cần tăng cường kiểm soát bộ máy nhà nước, giảm bớt sự cồng kềnh, chống chéo trong bộ máy, đồng thời nâng cao chất lượng, phẩm chất, năng lực cán bộ, đảng viên, thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm cá nhân ấy một cách nghiêm ngặt, gắn quyền lợi với trách nhiệm, nghĩa vụ, xây dựng cơ chế phát hiện và thải loại những cán bộ đảng viên, công chức thoái hóa, biến chất. Người chỉ rõ: “đấu tranh chống cái vũng lầy chủ nghĩa quan liêu và bệnh giấy tờ bằng cách kiểm tra người và kiểm tra công việc thực tế, tống cổ một cách không thương xót những công chức thừa, giảm biên chế, thay đổi những đảng viên cộng sản không nghiêm túc học tập việc quản lý”[14]; “lựa chọn người; thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với việc đang làm; kiểm tra công việc thực tế”[15].
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong điều kiện đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định các quan điểm của V.I.Lênin về đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng và có sự kế thừa, phát triển, vận dụng và giải quyết phù hợp với điều kiện nước ta. Đảng luôn coi tham nhũng là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ, đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Trong thời kỳ đầu đổi mới, tại hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, Đảng nhận diện nguy cơ thường trực đối với Đảng là nguy cơ cán bộ, đảng viên quan liêu, xa dân; Đảng ta cũng nhận định, đánh giá hiện nay: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”[16]. Đây là sự đánh giá nghiêm túc, đầy bản lĩnh, nhìn thẳng vào sự thật. Đảng ta cũng xác định phòng, chống quan liêu, tham nhũng là vấn đề nóng bỏng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, mà toàn Đảng, toàn dân cần phải giải quyết.
Cụ thể hóa quyết tâm trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác phòng, chống tham nhũng, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết liên quan đến phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Có thể nêu một số Nghị quyết tiêu biểu như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2 – khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa IX về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết Trung ương 3 khóa X “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...
Những Nghị quyết, chỉ thị nêu trên đã hình thành một hệ thống các quan điểm định hướng tư tưởng và chính sách của Đảng ta về phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Đảng ta xác định: Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, khó khăn, phức tạp; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, không nóng vội, không chủ quan, với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm; phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp; phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng tiếp tay cho tham nhũng; phải kết hợp giữa xây và chống, phòng ngừa gắn với xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam…
Những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta qua các thời kỳ là hết sức đúng đắn, phù hợp, được các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức thực hiện bài bản, chặt chẽ, sâu sát với quyết tâm chính trị cao và đạt được những kết quả quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng. Với sự quyết tâm và nghiêm khắc của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều vụ tham nhũng được xét xử, nhiều cán bộ tha hóa, biến chất ở mọi cấp, mọi ngành, “không có vùng cấm” đã chịu sự trừng phạt của pháp luật; đã thu hồi, đề nghị thu hồi tại sản trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, có việc, có nơi chưa nghiêm túc, đôi khi còn có hiện tượng “trên nóng, dưới lạnh”; còn thiếu những cơ chế, chính sách, chế tài, biện pháp có tính đột phá đủ mạnh để làm chuyển biến cơ bản tình hình. Vì thế, tình trạng quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ chưa bị đẩy lùi, có nơi, có lúc còn diễn biến phức tạp hơn.
Trong thời gian tới, trên sở sở tiếp tục vận dụng, phát triển các chỉ giáo của Lênin trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, căn cứ vào tình hình cũng như các yêu cầu đặt ra đối với công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, cần phải tập trung thực hiện tốt một số giải pháp:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong Đảng và xã hội về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đẩy lùi sự suy thoái, tha hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Trong cuộc vận động này, cần cụ thể hóa những nội dung về phòng, chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng trong nội dung học tập và làm theo tấm gương của Hồ Chí Minh; quán triệt những nội dung này đến các cán bộ, đảng viên.
Hai là, tạo lập, hoàn thiện môi trường pháp lý đồng bộ, minh bạch, nhất quán. Cần công khai và minh bạch việc ra các quyết định, nhất là trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tình trạng quan liêu, tham nhũng như phân bổ, bố trí vốn, đất đai, tài sản của nhà nước…Minh bạch việc đấu thầu và giao dự án đầu tư của nhà nước cho các tổ chức, cá nhân.
Ba là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, nghiêm trị những hành vi lạm dụng quyền lực, vi phạm Điều lệ Đảng, luật pháp của Nhà nước. Tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cấp ủy, Thường vụ, thường trực cấp ủy các cấp, giữa cấp ủy cấp trên và cấp ủy cấp dưới; giữa cấp ủy Đảng với các cơ quan nhà nước; giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống nhà nước; giữa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể với trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân, nhất là người đứng đầu; thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, xóa bỏ tuyệt đối cơ chế “xin – cho”. Xây dựng, hoàn thiện quy trình ra quyết định; làm rõ các công đoạn, xác định người chịu trách nhiệm chính của từng công đoạn. Nâng cao hiệu lực kiểm tra, giám sát, tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, Nhà nước; tập trung kiểm tra giám sát các tổ chức, cá nhân, người đứng đầu ở cấp cao, phát hiện, truy cứu đến cùng, xử lý triệt để những sai phạm, không có vùng cấm theo phương châm: quyền cao, chức trách càng lớn nếu sai phạm phải xử lý càng nghiêm.
Bốn là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, khắc phục những yếu kém, bất cập trong công tác cán bộ. Thực hiện thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý. Mở rộng hình thức thi tuyển cán bộ, công chức. Xây dựng tiêu chí, hoàn thiện quy trình, mở rộng diện và đối tượng tham gia đánh giá cán bộ, bảo đảm dân chủ, thật sự khoa học, công khai, minh bạch; lấy hiệu quả, chất lượng công việc làm tiêu chí chính. Đổi mới phương thức, quy trình đề bạt cán bộ, kết hợp quy hoạch cán bộ với mở rộng thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thực hiện công khai, minh bạch tài sản của cán bộ trước khi quyết định đề bạt. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác bầu cử trong Đảng và hệ thống chính trị; đề cao trách nhiệm giới thiệu của người đứng đầu; bảo đảm số dư các ứng viên ở tất cả các chức danh ở các cấp, các ngành và thực hiện quy định các ứng viên phải trình bày chương trình công tác. Nghiên cứu đổi mới quy trình bầu cử, đề bạt cán bộ theo hướng “dân bầu trước, Đảng quyết định phân công, bổ nhiệm sau”. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế cán bộ, cho từ chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị và các doanh nghiệp, tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp; có khuyết điểm, vi phạm chưa đến mức xử lý kỷ luật Đảng, kỷ luật hành chính, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Tập trung giải quyết những trường hợp mà dư luận có nhiều ý kiến. Kiên quyết và khẩn trương giải quyết, xử lý đúng người, đúng việc những vụ việc tồn đọng, nổi cộm, bức xúc đã phát hiện trong thời gian gần đây mà công luận quan tâm.
Năm là, phát huy vai trò của nhân dân của các cơ quan truyền thông đại chúng tham gia phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Thực hiện nghiêm trách nhiệm gắn bó với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân của tổ chức đảng, đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng; trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước được Hiến pháp, pháp luật quy định; xây dựng cơ chế để nhân dân giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước; để nhân dân tiến cử những người có đủ đức, tài vào các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Thực hiện có hiệu quả Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Giao cho các phương tiện thông tin đại chúng đưa lên công luận những hiện tượng hư hỏng, những hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí đã được xác định rõ ràng, đích xác.
Tóm lại, trên cơ sở những quan điểm, bài học quý báu, có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc của Lênin về phòng, chống quan liêu, tham nhũng, với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, với sự tham gia tích cực của cả cộng đồng, nhất định công cuộc phòng, chống quan liêu, tham nhũng sẽ đạt kết quả tốt đẹp, tạo niềm tin vững chắc của nhân dân với Đảng và chế độ./.
GS. TS. Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.8, tr.424.
[2]V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.13, tr.311.
[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.37, tr.511.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.54, tr.235.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.42. tr.309.
[6] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.38. tr.199.
[7] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.39, tr.350.
[8] VI. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t. 43, tr. 109.
[9]VI. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1977, t. 41, tr 34.
[10]VI. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1977, t. 41, tr 34.
[11] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1978, t.39, 214.
[12] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t.44, tr.486.
[13] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ,Mát-xcơ-va, 1978, t.44, tr.487.
[14] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ,Mát-xcơ-va, 1978, t.44, tr.453.
[15] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978,t.44, t.452.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.29.