Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045

Ngày phát hành: 22/02/2022 Lượt xem 5127

                                                        

Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045 cần triển khai mạnh mẽ và hiệu quả các định hướng sau.

          

1. Tiếp tục quán triệt nhất quán nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo, là nhiệm vụ quan trọng của đổi mới hệ thống chính trị.

 

          Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một thiết chế tổ chức có vị trí, vai trò đặc biệt trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, nhà nước luôn là một hệ thống tổ chức trọng tâm, hạt nhân của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta.  Tổ chức và hoạt động của nhà nước luôn là yếu tố tác động mạnh mẽ đến tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nói chúng và của từng thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị nói riêng. Sự đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tạo các tiền đề để các tổ chức trong hệ thống chính trị được đổi mới và hoàn thiện. Vì vậy cần nhận thức đúng vai trò to lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị với ý nghĩa là một nhiệm vụ trọng tâm.

          Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, là sự nghiệp của toàn dân. Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ và khoa học tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tạo cơ chế để cả hệ thống chính trị vào cuộc, các tầng lớp nhân dân tích cực và sáng tạo tham gia vào quá trình này.

          Xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền phải được tiến hành một cách toàn diện từ phát triển, hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt các đạo luật về thể chế nhà nước, hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

          Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị, gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, xử lý hài hòa các mối quan hệ giữa nhà nước; kinh tế thị trường và xã hội, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trên nền tảng thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.

          Xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là một quá trình lâu dài, phức tạp và có nhiều thách thức. Do vậy quá trình này cần được triển khai với các chương trình, kế hoạch cụ thể theo các lộ trình phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

 

 

2. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

 

          Trong giai đoạn đến 2030, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 2013 tiếp tục hoàn thiện các thể chế nhà nước đáp ứng yêu cầu, đổi mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tập trung đổi mới các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước, thể chế pháp luật, thể chế hành chính, thể chế tư pháp, tạo đồng bộ, giữa các thể chế nhà nước, qua đó nâng cao thực chất hiệu quả, hiệu lực của cả bộ máy nhà nước.

        Việc hoàn thiện các thể chế nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, vừa phải đồng bộ với các cải cách kinh tế, vừa phải tạo ra những động lực mới thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quyền làm chủ của nhân dân.

          Tiếp tục làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, và trách nhiệm của bộ máy nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, đảm bảo tính định hướng XHCN của nền kinh tế và tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường.

          Quán triệt và thực hiện nhất quán bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, xây dựng và hoàn thiện cơ chế đảm bảo nhân dân thật sự làm chủ nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong mối quan hệ với công dân cơ bản được xác định thông qua việc thể chế hóa nguyên tắc: “cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì “luật cho phép” và công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.”

          Tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân, sớm đồng bộ các luật về quyền con người, quyền công dân, tạo lập các cơ chế khả thi để công dân bình đẳng về quyền và bình đẳng về cơ hội, điều kiện để thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật.

          Trên cơ sở nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất” xác định rõ các cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

          Để đảm bảo sự phân công hợp lý trong thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, tập trung nghiên cứu và quy định rõ hơn phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm của quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, để tổ chức hợp lý các cơ quan thực hiện các quyền này, theo đúng yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN.

          Việc phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp cần khắc phục các chồng lấn về thẩm quyền, bảo đảm mỗi một quyền chỉ do một cơ quan chủ trì thực hiện và sự tham gia thực hiện của các cơ quan nhà nước khác, tạo sự thông suốt nhịp nhàng trong thực hiện và phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, cần nghiên cứu quy định rõ phạm vi, nội dung, phương thức phối hợp, quy trình thủ tục phối hợp đảm bảo tính chặt chẽ, trách nhiệm và hiệu quả đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất nói chung và thực hiện mỗi quyền nói riêng.

          Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp phải luôn gắn liền với sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện quyền lực do nhân dân ủy quyền. Giám sát quyền lực là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự phân công, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước. Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết cần được quan tâm chỉ đạo và tổ chức triển khai trong giai đoạn 2021 – 2026 và cần được hoàn thiện vào năm 2030. Song song với việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả kiểm soát của Quốc hội đối với việc thực hiện quyền lực của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập, cần quan tâm khẩn trương xây dựng cơ chế kiểm soát của Chính phủ đối với việc thực hiện quyền lực của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, cơ chế kiểm soát của Tòa án nhân dân tối cao đối với việc thực hiện quyền lực của Quốc hội và Chính phủ.

          Trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, và quyền tư pháp cần làm rõ vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước – Nguyên thủ quốc gia trong việc đảm bảo sự cân bằng, phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, đặc biệt vai trò và phương thức kiểm soát của Chủ tịch nước đối với việc thực hiện quyền lực do nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước.

           Việc hoàn thiện các chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ tiến hành ở các cơ quan nhà nước ở trung ương mà còn phải được đẩy mạnh đối với chính quyền địa phương các cấp. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 2013 về chính quyền địa phương, cần tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ qua nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

          Sau 2030 và tầm nhìn đến 2045 tổng kết đánh giá việc thực hiện các quy định của Hiến pháp 2013 về tổ chức và hoạt động của nhà nước, có thể nghiên cứu sửa đổi bổ sung Hiến pháp, nhằm tạo lập cơ sở hiến định mới cho tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN hiện đại, tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

 

3. Hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN.

 

          Hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy nhà nước theo các quy định của Hiến pháp 2013, làm rõ vị trí, vai trò, thẩm quyền của cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp và cơ chế quan hệ giữa các cơ quan này trong phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong mô hình tổng thể tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương, nghiên cứu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về Chủ tịch nước, phù hợp với vị trí là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, đặc biệt vai trò của Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tư pháp.

          Trong mô hình tổng thể bộ máy nhà nưuóc cần tiếp tuc cụ thể hóa mối quan hệ giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực thực hiện quyền tư pháp, đảm bảo Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp theo đúng quy định của Hiến pháp. Nâng cao địa vị pháp lý và tổ chức hợp lý các thiết chế hiện định để phát huy vai trò, hiệu quả của các tổ chức này rong mô hình tổng thể bộ máy nhà nước, nghiên cứu khả năng xây dựng bổ sung thêm các thiết chế hiến định độc lập sau khi HIến pháp 2013 được sửa đổi, bổ sung.

          Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội bảo đảm Quốc hội thật sự là cơ quan đai biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc kiểm soát quyền lực, quản lý và sử dụng các nguồn lực của đất nước.

          Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả của bộ máy Quốc hội theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp, đổi mới luật bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn được các đại biểu xứng đáng, đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân, có đủ phẩm chất đạo đức, uy tín, năng lực chuyên môn ngang tầm với nhiệm vụ. Tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, giảm số đại biểu công tác tại các cơ quan hành pháp, tư pháp.

          Sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn của Quốc hội, tăng thêm hợp lý số lượng các Ủy ban của Quốc hội, điều chỉnh các lĩnh vực phụ trách của Hội đồng dân tộc, các ủy ban, khắc phục các chồng chéo trong nhiệm vụ, chức năng của một số Ủy ban.

          Đổi mới quy trình lập pháp phù hợp với phạm vi quyền lập pháp của Quốc hội. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật.

          Hoàn thiện các hình thức và phương thức giám sát tối cao, đổi mới hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn, tăng cường lấy phiếu tín nhiệm và hoàn thiện cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đổi với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoăc phê chuẩn. Đổi mới mạnh mẽ nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, đặc biệt đổi mới quy trình thủ tục tiến hành kỳ họp của Quốc hội, tạo điều kiện để từng bước Quốc hội chuyển sang hoạt động thường xuyên.

         Nghiên cứu xây dựng và sớm thông qua luật về Chủ tịch nước nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về vai trò, chức năng, quyền hạn của Chủ tịch nước, nâng cao vị thể Chủ tịch nước trong vai trò là người đứng đầu nhà nước, thay măt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội, đối ngoại, chủ tịch hội đồng quốc phòng an ninh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang.

         Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Kiện toàn cơ cấu tổ chức Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành , đa lĩnh vực. Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho công dân, tổ chức và doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động của Chính phủ, của các cơ quan hành chính; đẩy nhanh tiến độ, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

          Làm rõ chức năng, thẩm quyền tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp. Tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân không theo đơn vị hành chính lãnh thổ, theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo và đương sự. Tinh gọn tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân các cấp, phân định rành mạch các quan hệ quản lý hành chính và quan hệ tố tụng, trong tổ chức và hoạt động của Tòa án cấp cao, cấp tỉnh, cấp huyện đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống Tòa án nhân dân.

          Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Làm rõ vị trí, vai trò, tính chất của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp và mối quan hệ với Tòa án nhân dân, đảm bảo tòa án thực hiện quyền tư pháp. Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành viện công tố, tăng thẩm quyền điều tra, tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, đặc biệt các vụ án tham nhũng,

          Kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức luật sư, của các cơ quan bổ trợ tư pháp.

        Đổi mới chính quyền địa phương theo các quy định của Hiến pháp 2013. Đa dạng hóa mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo.

          Tổng kết thí điểm mô hình chính quyền địa đô thị, trên cơ sở đó triển khai xây dựng luật tổ chức chính quyền đô thị. Nghiên cứu, quy định rõ mô hình cơ quan hành chính nhà nước tại các đơn vị hành chính lãnh thổ không tổ chức cấp chính quyền địa phương. Tiếp tục triển khai chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính không đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định đối với cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh. Hoàn thiện các quy định, pháp luật để mỗi cấp chính quyền địa phương thực sự là một pháp nhân công quyền, đủ điều kiện và năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

          Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm với nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Mở rộng việc thí điểm nhân dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và các cấp chính quyền địa phương, thi tuyển chức danh cán bộ quản lý; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám và kiểm soát việc thực thi công vụ, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính.

          Cải cách hoàn thiện chính sách tiền lương, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung. Có cơ chế chặt chẽ, minh bạch để sàng lọc, thay thế kịp thời những nguời không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi bộ máy nhà nước.

 

 

4. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch.

        Hoàn thiện pháp luật về thể chế nhà nước.

          Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ cquan nhà nưuóc trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Đổi mới, hoàn thiện mô hình tổng thể bộ máy nhà nước.

          Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, tạo cơ sở pháp luật để Quốc hội chuyển dần sang chế độ hoạt động thường xuyên.

           Nghiên cứu xây dựng luật về Chủ tịch nước để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về người đứng đầu nhà nước, về vai trò của Chủ tịch nước trong phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực.

          Hoàn thiện pháp luật về Chính phủ, và nền hành chính quốc gia theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, xây dựng nền hành chính quốc gia hiện đại, chuyên nghiệp.

          Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, quy định rõ tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân phù hợp với tính chất là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, làm rõ tính chất và đổi mới mô hình Viện kiểm sát nhân dân, hoàn thiện các cơ quan điều tra, bổ trợ tư pháp.

          Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính quyền địa phương theo hướng đa dạng hóa mô hình tổ chức, nghiên cứu xây dựng luật về chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn.

         Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân.

         Hoàn thiện các quy định pháp luật thể chế hóa Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân, nội luật hóa các quy định của công ước quốc tế về quyền con người.

       Tiếp tục thể chế hóa các quyền hiến định về quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền sống trong môi trường trong lành, quyền xác định dân tộc, quyền an toàn tính mạng. Quy định nguyên tắc đảm bảo quyền con người trong các văn bản quy phạm pháp luật.

          Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế. Hoàn thiện các quy định pháp luật về các loại thị trường, các thành phần kinh tế, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, pháp luật về hợp đồng, về quyền sở hữu, về tài chính, ngân sách, thuế quan, về giải quyết tranh chấp kinh tế, phá sản doanh nghiệp nhằm khắc phục các rào cản pháp lý, tạo môi trường thuận lợi và an toàn tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

          Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giáo dục đào tạo, khoa học, văn hóa và xã hội.

          Thể chế hóa đầy đủ quan điểm giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, tạo các đột phá trong giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học công nghệ, phấn đấu đến 2030 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và châu lục.

          Hoàn thiện pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, an sinh xã hội.

          Gắn kết với sự phát triển kinh tế, xã hội củng cố nền tảng đạo đức xã hội phục vụ người dân.

          Hoàn thiện pháp luật về quốc phòng an ninh, hội nhập quốc tế.

          Đảm bảo sự gắn kết giữa quốc phòng an ninh với kinh tế, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho củng cố, tăng cường sức mạnh, năng lực, quốc phòng, an ninh trong bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.

          Đẩy mạnh rà soát các văn bảo pháp luật, đảm bảo sự tương thích với các cam kết, các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ để Việt Nam chủ động hội nhập sâu rộng, toàn diện vào đời sống quốc tế.

 

5. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.

 

          Tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch, rõ ràng, dễ tiếp cận, dễ thực hiện.  Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể trong các giai đoạn của quy trình lập pháp, quyền, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân chịu sự tác động của luật, lấy lợi ích của người dân, doanh nghiệp làm căn cứ để xây dựng luật.

          Khắc phục việc ban hành luật khung, luật có phạm vi điều chỉnh quá rộng, tập trung xây dựng các luật có đối tượng phạm vi điều chỉnh hợp lý, nội dung ngắn, rõ, dễ dàng tổ chức thực hiện.

          Hạn chế tối đa việc ủy quyền lập pháp, giao nhiều điều khoản cho Chính phủ quy định, đảm bảo luật ban hành có hiệu lực trực tiếp.

          Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội trong giải thích luật:

          Đẩy mạnh công tác tổ chức thi hành pháp luật; cải cách trình tự, thủ tục tổ chức thi hành pháp luật đảm bảo công khai, minh bạch,

          Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong tổ chức thi hành pháp luật, tăng cường cơ chế, giám sát, kiểm tra, thanh tra, của cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và người dân đối với công tác thi hành pháp luật.

          Bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thi hành pháp luật, xử lý nghiêm các vi phạm.

          Quy định cụ thể các tiêu chí định giá hiệu quả thi hành pháp luật, Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật, quy định rõ, minh bạch trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong tổ chức thi hành pháp luật.

          Tăng cường điều kiện, phương thức và khả năng để người dân tiếp cận hệ thống pháp luật một cách dễ dàng, thuận lợi.

          Triển khai hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục tuyên truyền pháp luật, không ngừng nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật của các tầng lớp nhân dân.

          Phát triển đồng bộ các dịch vụ pháp luật, đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ pháp luật; phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư, tư vấn pháp luật, tăng cường mạng lưới trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng chính sách.

          Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, công chức trong tổ chức thi hành pháp luật, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, quan tâm đầu tư thích đáng cho công tác tổ chức thi hành pháp luật.

 

6. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

 

          Không ngừng quán triệt và nâng cao nhận thức của toàn xã hội về dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nhiệm vụ xuyên xuốt quán trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

          Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện.

          Dân chủ XHCN phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, đến tư tưởng, văn hóa xã hội. Cần rà soát các cơ chế thực hành dân chủ trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội để sửa đổi, hoàn thiện, ban hành mới đảm bảo mỗi lĩnh vực dân chủ đều có cơ chế pháp lý đầy đủ để thực hiện, tạo điều kiện, môi trường minh bạch, thuận lợi cho mỗi cơ quan tổ chức, người dân phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

          Để thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội trước hết phải đẩy mạnh thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội.

          Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử để đảm bảo nhân dân làm chủ bằng nhà nước, thông qua nhà nước. Nghiên cứu, hoàn thiện Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tạo cơ chế tối đa để cử tri tự do lựa chọn các đại biểu xứng đáng bầu vào Quốc hội, HĐND các cấp đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân

          Đẩy mạnh dân chủ hóa trong các hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trước nhân dân. Thực hiện nghiêm chế độ tiếp công dân, đối thoại với nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo đúng quy định của pháp luật.

          Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức dân chủ trực tiếp của người dân. Trước hết tập trung xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp quyền làm chủ của nhân dân. Nghiên cứu xây dựng và sớm ban hành luật về dân chủ cơ sở, trên cơ sở tổng kết việc thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở, pháp lệnh dân chủ ở cơ sở để thể chế ở tầm đạo luật, phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra giám sát và dân thụ hưởng.”

          Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế nhân dân tham gia vào các công việc nhà nước. Hoàn thiện các quy định pháp luật về việc lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo văn bản pháp luật, đối với các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế xã hội quan trọng, trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến nhân dân đối với các vấn đề được đưa ra lấy ý kiến. Hoàn thiện cơ chế, hình thức, phương thức tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân đối với các văn kiện của Đảng, chương trình nghị sự tại các kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Xây dựng kế hoạch, khả năng thực hiện việc trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân đã được Quốc hội thông qua.

          Nghiên cứu xây dựng Luật giám sát xã hội, phản biện xã hội, tạo cơ chế pháp lý minh bạch để các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của các tổ chức Đảng, Đảng viên, bộ máy nhà nước, công chức và viên chức nhà nước, việc sử dụng tài chính công, tài sản công, phòng chống tham nhũng và các vi phạm pháp luật.

          Phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Tham gia tích vực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp phần đảm bảo nhà nước ta thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.

          Phát huy dân chủ đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nghiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đề cao đạo đức xã hội, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến lợi ích của nhà nước, xã hội, nhân dân.

 

7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

 

          Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền XHCN là một nguyên tắc hiến định, được xác định trong Hiến pháp Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội…”. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cốt lõi, điều kiện tiên quyết để đảm bảo nhà nước ta thật sự là nhà nước pháp quyền XHCN, thật sự của dân, do dân, vì dân.

          Là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo xã hội bằng nhà nước và thông qua nhà nước.

          Đảng phải tăng cường lãnh đạo quá trình cải cách, hoàn hiện bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo bộ máy nhà nước được tổ chức hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, thực hiện tốt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

          Xây dựng, hoàn thiện cơ chế xử lý hài hòa, hiệu quả mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của nhà nước theo đúng phương châm “Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không làm thay nhà nước”.

          Tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp, đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy của Đảng, theo hướng tinh gọn, hiệu quả, khắc phục tình trạng bộ máy Đảng song trùng với bộ máy nhà nước, chồng chéo chức năng, lẫn lộn trách nhiệm.

          Các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương cần tăng cường sử dụng bộ máy nhà nước thực hiện chức năng tham mưu, đề xuất chủ trương chính sách. Các cơ quan chuyên môn trong tổ chức bộ máy Đảng, tập trung vào công tác tham mưu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, dân vận, kiểm tra, công tác hành chính trong hoạt động của Đảng.

          Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược, các định hướng chính sách của Đảng, đổi mới quy trình xây dựng và ban hành nghị quyết. Các nghị quyết của Đảng cần tập trung vào những vấn đề có tính chiến lược, cơ bản, những vấn đề trọng đại của đất nước trong xây dựng và bảo vê tổ quốc trong mỗi giai đoạn phát triển bền vững đất nước. Nội dung các nghị quyết tập trung vào các quan điểm định hướng lớn, mục tiêu cơ bản tạo khuôn khổ chính trị để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước chủ động, linh hoạt quyết định các nhiệm vụ, chủ trương, giải pháp cụ thể, khắc phục sự trùng lặp về nhiều nội dung trong nghị quyết của Đảng và các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nưóc xây dựng, ban hành theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

          Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế để cụ thể hóa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đối với từng thiết chế trong tổ chức bộ máy nhà nước để phù hợp với tính chất, vai trò, chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

          Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức của Đảng trong hệ thống các cơ quan nhà nước, xử lý hài hòa quan hệ công tác giữa tập thể cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, tổ chức nhà nước; giữa người đứng đầu cấp ủy và người đứng đầu cơ quan nhà nước, vừa đảm bảo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng vừa đảm bảo nguyên tắc hoạt động của cơ quan nhà nước.

          Tiếp tục hoàn thiện quy chế làm việc của các cấp ủy, các cấp từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư đến cấp ủy địa phương, trên cơ sở đó hoàn thiện quy chế về mối quan hệ công tác giữa cấp ủy Đảng và cơ quan chính quyền tương ứng cùng cấp, tập trung xác định rõ, cụ thể thẩm quyền và phương thức xử lý các nhóm vấn đề: Những vấn đề của nhà nước do cấp ủy quyết định; những vấn đề thuộc quyền quyết định của cơ quan nhà nước nhưng xin ý kiến cấp ủy; những vấn đề do cơ quan nhà nước tự quyết định.

          Nghiên cứu thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tiếp tục đổi mới quy trình cán bộ, đặc biệt quy trình Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền phù hợp với các quy định pháp luật về bầu cử.

          Đổi mới, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, hoàn thiện tổ chức của các cơ quan kiểm tra của Đảng, các cơ quan thanh tra, giám sát trong bộ máy nhà nước, khắc phục sự chồng chéo, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra Đảng và thanh tra nhà nước theo đúng điều lệ Đảng và pháp luật, nhằm không ngừng củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của bộ máy nhà nước.

 

PGS.TS Lê Minh Thông

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết