I. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường, thể chế kinh té thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đại hội VI của Đảng (1986) đã đặt nền móng về nhận thức, quan điểm mở đầu cho quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Trong đó Đảng đã xác định phải đổi mới tư duy phát triển, mà trước hết là tư duy kinh tế. Trong một thời gian dài trước đây, nước ta (cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây) với quan niệm chủ nghĩa xã hội sai lệch, giáo điều, đã có nhận thức không đúng về bản chất của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và mối quan hệ với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm đặc trưng bản chất của chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; kinh tế thị trường không dung hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Cơ chế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phải là cơ chế kế hoạch hoá tập trung - bao cấp cao độ.
Quá trình thực hiện đường lối Đổi mới đã mang lại những nhận thức mới cả về lý luận và thực tiễn về bản chất kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI của Đảng mới nhấn mạnh: Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế mới lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Trên cơ sở đó từng bước tiếp cận với cơ chế thị trường.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã nêu rõ: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”[1].
Đến Đại hội IX, Đảng ta đã tiến lên một bước cao hơn, khẳng định: “Mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[2].
Đến Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ hơn bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng tự nó không đồng nghĩa với tư bản chủ nghĩa”; “Chúng ta cần phải sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Dưới góc độ thể chế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “Đó là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[3].
Đại hội XI của Đảng nêu rõ hơn: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”[4].
Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng xác định: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.
Có thể nói rằng từ chỗ coi kinh tế thị trường là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, không dung hợp với chủ nghĩa xã hội, tiến lên coi kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản; chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể vận dụng và phát triển kinh tế thị trường, cao hơn nữa coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là một bước ngoặt có tính lịch sử cả về lý luận và thực tiễn của Đảng ta, của đất nước ta, với cốt lõi là chuyển đổi thể chế phát triển từ “thể chế kế hoạch hóa hành chính tập trung quan liêu bao cấp, phi thi trường” sang “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế”.
Những quan điểm đổi mới cơ bản của Đảng ta thể hiện khái quát ở một số nội dung quan trọng sau đây:
i) - Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất - đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể và cần thiết vận dụng và phát triển kinh tế thị trường.
ii) Kinh tế thị trường có những mặt mạnh, tích cực cơ bản; đồng thời có những mặt hạn chế, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển; các mặt tích cực và tiêu cực tác động khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau; trong kinh tế khác với trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội; trong giáo dục khác với trong trong khoa học công nghệ, trong y tế… Việc vận dụng đúng đắn, có hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng của mỗi nhà nước.
iii) Mỗi nước, mỗi thể chế kinh tế - chính trị - xã hội, tuỳ theo điều kiện cụ thể lại vận dụng và phát triển kinh tế thị trường với những nội dung, hình thức, qui mô, cấp độ khác nhau.
iv) Nước ta phải chuyển từ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo quan niệm khép kín, mang nặng tính tự cung, tự cấp; sang xây dựng nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế.
v) Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là mối quan hệ “kết hợp”, “dung hợp” một cách đơn giản, chủ quan duy ý chí, máy móc các giá trị kinh tế (thị trường) và các giá trị xã hội (định hướng XHCN) trong quá trình phát triển. Ở đây là mối quan hệ hữu cơ tạo nên một thể chế - cơ chế mới, với bản chất và động lực mới cho sự phát triển khách quan. Trong đó, những mặt mạnh, những mặt tích cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường có tác động cùng chiều, làm tăng thêm sức mạnh phát triển các giá trị tốt đẹp. Ngược lại, những mặt bất cập, hạn chế của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường lại có tác động tiêu cực, làm yếu đi sự phát triển các giá trị tốt đẹp, phải được hạn chế. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong xây dựng thể chế kinh KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập quốc tế là phải hoàn thiện thể chế - cơ chế phát huy cao những mặt mạnh, tích cực của cả thị trường và nhà nước; đồng thời hạn chế, triệt tiêu những tác động tiêu cực, những “thất bại” của cả thị trường và nhà nước phù hợp và hiệu quả đối với sự phát triển chung của cả nước cũng như đối với từng lĩnh vực.
vi) Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ thể hiện ở phương diện chính sách xã hội, lại càng không phải chỉ là sự bao cấp xã hội, mà tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện đồng bộ ở ba phương diện: xây dựng cơ chế phát triển để giải phóng triệt để sức sản xuất nhiều thành phần; hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, dân giàu, nước mạnh; thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển con người, các chính sách xã hội, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo được sự phát triển mạnh mẽ để mang lại được lợi ích thiết thực mọi mặt ngày càng cao cho nhân dân, để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn và phát triển cao hơn.
vii) Cương lĩnh 2011 và Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội - cũng là những giá trị cơ bản về “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng”[5]; đồng thời nêu lên những nhận thức cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, trong đó chỉ ra : Là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh[6].
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội XIII nêu rõ: “KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển”.
Vì vậy, có thể nói rằng tính định hướng XHCN phải được thực hiện thông qua đồng bộ thể chế phát triển ở tất cả các lĩnh vực, trong đó phải tạo lập được năng lực độc lập - tự chủ ngày càng cao hơn của nền kinh tế dân tộc, tạo được động lực mạnh mẽ để thực hiện ngày càng cao hơn mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ nhận thức về nền KTTT ĐHXHCN, Đảng ta đã nâng lên nhận thức về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (TC KTTT ĐHXHCN), coi đó là mô hình cơ chế vận hành của nền KTTT ĐHXHCN.
Đại hội X đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI coi “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một trong ba đột phá chiến lược. Riêng về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành hai nghị quyết quan trọng[7]: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 (Khóa X)và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 (khóa XII); trong đó xác định nội dung cốt lõi của TC KTTT ĐHXHCN là: (i). Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; (ii) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, quyền tài sản, thể chế về phân phối, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất, kinh doanh; (iii). Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường; (iv). Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường; (v) Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Quán triệt quan điểm chỉ đạo: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam; bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XII và XIII của Đảng khẳng định tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống TC KTTT ĐHXHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Như vậy, trong Văn kiện các Đại hội X, XI, XII, XIII của Đảng đều luôn coi vấn đề hoàn thiện TC KTTT ĐHXHCN là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước; xác định thể chế KTTT đồng bộ và hiện đại là một nền tảng cơ bản để thúc đẩy quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế sang phát triển theo chiều sâu, nhanh - bền vững.
3. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được đặt trong dòng chảy phát triển hiện thực của nhân loại và trình độ phát triển hiện thực của đất nước.
Từ khi tiến hành đường lối Đổi mới, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là một đòi tất yếu khách quan, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phải gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó:
i). Xây dựng và hoàn thiện TC KTTT ĐH XHCN cần phải có cách tiếp cận từ thực tiễn: Thực tiễn sự phát triển KTTT trên thế giới và thực tiễn sự phát triển KTTT của Việt Nam trong mối quan hệ biện chứng; hơn nữa mối quan hệ đó là - KTTT của Việt Nam là một bộ phận (nhỏ) của KTTT thế giới chứ không phải ngược lại. Không thể xây dựng TC KTTT ĐH XHCN từ tư duy lý luận tư biện, xa rời thực tiễn.
ii). Vấn đề xây dựng và hoàn thiện TC KTTT ĐH XHCN không thể được xem xét tách biệt với toàn bộ quá trình phát triển theo định hướng XHCN của một quốc gia trong điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của thế giới. Trong quá trình phát triển của nhân loại qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, những giá trị phát triển tốt đẹp và cao hơn phải là những giá trị tiêu biểu chung của nhân loại, mà các quốc gia - dân tộc sẽ từng bước đi tới trong sự vận động, đấu tranh và phát triển của mình. Điều đó nói lên rằng sự phát triển của một quốc gia theo định hướng XHCN không thể đối lập (càng không thể biệt lập) với những giá trị chung tốt đẹp - tiến bộ của nhân loại. Điều này cần phải được thể hiện ngay trong nhận thức và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện TC KTTT ĐH XHCN[8]. Thực tiễn cho thấy sự phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có xây dựng và hoàn thiện TC KTTT ĐH XHCN, có thể và cần phải tiếp thu những giá trị phát triển chung - tiến bộ của nhân loại. Việc xác định mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị đặc thù của một nước với các giá trị phổ quát của nhân loại trong quá trình phát triển theo định hướng XHCN là một vấn đề có tính nguyên tắc.
iii). Quan điểm của Đảng ta về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: xây dựng một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cách tiếp cận theo mục tiêu phát triển bao trùm. Như vậy, có thể hiểu rằng tính định hướng XHCN trong sự phát triển của đất nước chính là hướng tới thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn và ở trình độ cao hơn mục tiêu bao trùm trên.
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam sẽ “đi vào” sân chơi quốc tế trong rất nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…ở những cấp độ khác nhau. Trong xây dựng và hoàn thiện TC KTTT ĐH XHCN chúng ta phải chấp nhận những giá trị chung, những “luật chơi” chung; đồng thời, ngày càng phát triển mạnh hơn nội lực của mình. Đây là quá trình cạnh tranh - đấu tranh - hợp tác theo nguyên tắc mỗi nước đặt lợi ích quốc gia - dân tộc mình lên trước hết, đồng thời bảo vệ lợi ích phát triển chung và tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước khác.
(Còn tiếp)
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, HN 2005, trang 481.
[3] Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khoá X, NXB CTQG, HN, 2008, trang 139.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, trang 34
[5] (1) - “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
(2) - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
(3) - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
(4) - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
(5) - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
(6) - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
(7) - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
(8) - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng CSVN, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016
[7] Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
[8] Việt Nam đã tham gia Liên Hợp Quốc, tham gia WTO, tham gia Cộng đồng an ninh - kinh tế - văn hóa - xã hội ASEAN và hơn 15 Hiệp định thương mại tự do khác, trong đó có những Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới với những quy định không chỉ về kinh tế, thương mại thuần túy, mà cả những quy định về lao động, đầu tư, thể chế quản lý, vai trò của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ.... Trong tất cả các hiệp định đó chứa đựng nhiều giá trị chung mà các nước tham gia phải tuân theo (cũng có thể có những “giá trị” thể hiện sự ưu tiên hơn đối với những nước có trình độ phát triển còn thấp, lại có những giá trị cao hơn do những nước có trình độ phát triển cao hơn đặt ra). Nếu xét theo quan điểm phát triển theo định hướng XHCN với nhận thức máy móc, giáo điều, phi thực tiễn, thì có thể cho rằng việc tham gia và chấp nhận các giá trị chung đó (có thể có các “giá trị” không phù hợp lắm, do các nước có trình độ phát triển cao hơn đặt ra) - là không đúng với định hướng XHCN.