Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Kiến nghị của đề tài "Đối ngoại đa phương của Việt Nam: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp"

Ngày phát hành: 26/08/2020 Lượt xem 10715

Đề tài "Đối ngoại đa phương của Việt Nam: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp".Mã số KX.04.27/16-20 do PGS.TS Đặng Đình Quý làm Chủ nhiệm  đã bảo vệ thành công xuất sắc. Dưới đây là một số kiến nghị của đề tài 

 

 

I. Thống nhất về nhận thức và lý luận

1. Thống nhất nhận thức về đối ngoại đa phương

Đề tài kiến nghị thống nhất nhận thức về đối ngoại đa phương của Việt Nam. Theo đó, cần phải coi “Đối ngoại đa phương Việt Nam là một bộ phận quan trọng của công tác đối ngoại, bao gồm các hoạt động liên quan tới hai hay nhiều đối tác nước ngoài, chủ yếu được triển khai bởi các chủ thể nhà nước và tại các cơ chế đa phương nhằm thực hiện, tham gia xây dựng các quy tắc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực trong quan hệ quốc tế và giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế, thúc đẩy phát triển, bảo đảm an ninh của đất nước.

Với cách hiểu này, cần thống nhất nội hàm của khái niệm đối ngoại đa phương Việt Nam gồm những thành tố chính sau:

Về vị trí và vai trò: đối ngoại đa phương là một bộ phận quan trọng trong công tác đối ngoại. Đây là sự định vị của hình thức đối ngoại này trong tổng thể công tác đối ngoại của đất nước. Hơn nữa, đối ngoại đa phương có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời, và có tác động qua lại bổ sung cho hình thức đối ngoại song phương. Tuy nhiên, đối ngoại đa phương cũng có vị trí độc lập và hình thức hoạt động đặc thù của mình.

Tất cả các hoạt động liên quan đến hai hay nhiều đối tác nước ngoài diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp trong môi trường đa phương đều là hoạt động đối ngoại đa phương, với các hình thức hoạt động chính gồm tham gia hội nghị, diễn đàn đa phương; đàm phán ký kết các hiệp định, thỏa thuận đa phương; hoặc tham gia các tổ chức, cơ chế đa phương. Theo đó, từ các cá nhân, tổ chức đến quốc gia và tổ chức quốc tế đều có thể trở thành đối tác hợp tác trong các khuôn khổ đa phương.

Về mục đích/mục tiêu: là một bộ phận của chính sách đối ngoại, mục tiêu bao trùm của công tác đối ngoại đa phương luôn phải thống nhất với mục tiêu đối ngoại chung là phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đối ngoại đa phương là công cụ quan trọng giúp đạt được mục tiêu lợi ích quốc gia dân tộc, là an ninh, phát triển và vị thế. Trong từng giai đoạn lịch sử, thứ tự ưu tiên của các mục tiêu này có thể thay đổi. Tuy nhiên, trước đặc thù của hoạt động đa phương và sự vận động của các thể chế đa phương cũng như việc triển khai công tác đối ngoại của Việt Nam hiện nay, việc ưu tiên mục tiêu nâng cao vị thế là phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước và phát huy được thế mạnh đặc thù của đối ngoại đa phương; nâng cao và phát huy vị thế là điều kiện quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển và bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Bên cạnh đó, việc theo đuổi lợi ích quốc gia dân tộc trong khuôn khổ các thể chế đa phương cũng có nét đặc thù: một mặt Việt Nam cũng như các nước khác luôn coi lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng, nhưng mặt khác, các cơ chế đa phương là nơi phối hợp hành động vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Do đó, hoạt động đối ngoại đa phương cũng hướng tới sự hài hòa với lợi ích chung trong từng thời điểm, diễn đàn, hoàn cảnh cụ thể. Việc đề cao tinh thần hợp tác, đóng góp vào việc xây dựng luật chơi chung và giải quyết các vấn đề chung, do đó vừa trực tiếp góp phần xây dựng hình ảnh/vị thế đất nước, vừa gián tiếp phục vụ các lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam.

Việc tham gia các tổ chức và cơ chế đa phương theo hướng phấn đấu trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế trước hết là để phục vụ mục tiêu an ninh và phát triển. Tuy nhiên, do tính định hướng của chủ nghĩa đa phương đối với hành vi quốc gia, điều này cũng có thể đưa đến sự định vị và định hình rõ hơn bản sắc quốc gia của Việt Nam trong các mối quan hệ tương tác với các nước khác trong môi trường đa phương.

Về chủ thể: là một bộ phận của công tác đối ngoại nói chung, chủ thể của đối ngoại đa phương cũng là các chủ thể chính tham gia hoạch định chính sách và triển khai công tác đối ngoại Việt Nam. Đó là toàn bộ hệ thống chính trị xã hội của đất nước, gồm các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, địa phương, quốc hội, học giả, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, và tổ chức nhân dân. Cũng như hội nhập quốc tế, công tác đối ngoại đa phương cần phải trở thành sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng nòng cốt làm công tác đối ngoại là nhà nước, các cơ quan nhà nước, đặc biệt là Bộ Ngoại giao, trong sự phân công, phân nhiệm với các lực lượng khác, thể hiện tính đa ngành, đa chủ thể của đối ngoại đa phương Việt Nam.

Sự tham gia của các chủ thể đối ngoại đa phương kể trên phải được triển khai trên tất cả các kênh và được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Các loại hình công tác đối ngoại đa phương gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân, đối ngoại Quốc hội, trong đó ngoại giao Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Ngoại giao đa phương cấp Nhà nước được tiến hành trong sự phân công phối hợp giữa các chức năng cụ thể của ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng - an ninh. Ngoại giao Nhà nước thực hiện các chức năng đặc thù như đàm phán, hội đàm ký kết, gia nhập, thực hiện các điều ước quốc tế… Ngoại giao Nhà nước là kênh chính thức đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ ổn định chính trị và sự nghiệp phát triển đất nước trong quan hệ với các nước và tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh đối ngoại này là nhân tố quan trọng để tạo nên hiệu quả của công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng.

Về địa bàn triển khai: hoạt động đối ngoại đa phương chủ yếu diễn ra trong các khuôn khổ thể chế đa phương (gồm diễn đàn, cơ chế, tổ chức, dự án/chương trình/nhiệm vụ, hoặc các hình thức khác). Các thể chế đa phương quốc tế hiện nay phát triển ngày càng phong phú, từ các định chế toàn cầu tới các cơ chế liên kết khu vực và tiểu vùng cũng như chuyên ngành với các mức độ hợp tác đa dạng và linh hoạt.

Tuy nhiên, đối ngoại đa phương còn liên quan đến việc chấp nhận và tuân thủ các cam kết đa phương, theo đó Việt Nam phải bổ sung và điều chỉnh nội luật cũng như phương thức hoạt động của bộ máy hoạch định và triển khai chính sách quốc gia để phù hợp với luật chơi chung do các thể chế đa phương tạo ra. Việc triển khai các hoạt động nhằm thực hiện, tuân thủ luật chơi chung là công việc diễn ra bên trong khuôn khổ quốc gia của các chủ thể thành viên.

- Về lĩnh vực hoạt động: đối ngoại đa phương Việt Nam luôn gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế, do đó ngày càng mang tính đa lĩnh vực, gồm kinh tế, chính trị, an ninh, luật pháp, văn hóa, xã hội, và các lĩnh vực khác của hợp tác quốc tế. Đối ngoại đa phương trong các lĩnh vực này không độc lập mà có sự gắn kết với nhau do đa số các thể chế đa phương hiện nay mang tính đa lĩnh vực. Nhiều thể chế đa phương khi ra đời là một diễn đàn kinh tế, nhưng trong quá trình hoạt động lại mở rộng sang lĩnh vực chính trị- xã hội, hoặc ngược lại. Chính vì vậy, có thể nói các hoạt động đối ngoại đa phương không giới hạn về lĩnh vực hợp tác. Tuy nhiên, các lĩnh vực đối ngoại đa phương mà Việt Nam ưu tiên tham gia là các lĩnh vực Việt Nam (i) có lợi ích sát sườn, thiết thân cần phải ưu tiên bảo vệ và thúc đẩy, (ii) có thế mạnh và kinh nghiệm để qua đó nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam, và (iii) theo các mức độ từ thấp đến cao gồm thực hiện các quy tắc, luật pháp và chuẩn mực quốc tế thông qua quá trình đàm phán, nội luật hóa và triển khai thực hiện các cam kết, tham gia xây dựng luật chơi đa phương mới, trước mắt tham gia đóng góp ý tưởng, quan điểm, hình thành các tập hợp lực lượng để giúp hình thành chính sách cũng như sau này đóng góp nguồn nhân lực và vật lực nhiều hơn để giải quyết các vấn đề chung.

 

 

2. Khẳng định các chuyển biến mới trong tư duy của Đảng liên quan đến “đối ngoại đa phương Việt Nam”

Thứ nhất là tư duy mới về lợi ích quốc gia dân tộc, trong đó cách tiếp cận đa chủ thể, đa ngành và đa lĩnh vực trong đối ngoại đa phương Việt Nam cho thấy một nhận thức rõ hơn về sự đan xen lợi ích giữa các chủ thể, trên nhiều lĩnh vực và trong nhiều mặt của đời sống quan hệ quốc tế và đời sống chính trị-xã hội quốc gia. Xét từ góc độ đó, công tác đối ngoại đa phương ngày nay thể hiện một cách tiếp cận mới và quan niệm mới bổ sung cho cách hiểu về lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu như Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng thì với tư duy về đối ngoại đa phương, quan niệm về lợi ích quốc gia dân tộc đã được mở rộng hơn: trong quá trình triển khai công tác đối ngoại đa phương, Việt Nam nhằm, trước hết phục vụ mục tiêu lợi ích của quốc gia/dân tộc, nhưng nhấn mạnh vào (i) sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể bên trong đất nước và (ii) trong sự cân nhắc tới lợi ích chung của các nước khác, của cả cộng đồng khu vực và quốc tế.

Thứ hai là cách tiếp cận về hội nhập quốc tế chủ động và tích cực, sâu rộng và toàn diện cùng thái độ ứng xử hài hòa giữa quyền lợi quốc gia - dân tộc của Việt Nam và lợi ích của các nước khác trong khu vực và toàn cầu, trong đó Việt Nam là một bộ phận gắn kết theo phương châm hợp tác đi đôi với đấu tranh.

Thứ ba, định hướng và nội dung hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam ngày càng rõ nét hơn, từ “thêm bạn, bớt thù” sang “là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, - vốn còn thiên về cách tiếp cận song phương - tới “chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế”, tiến tới đóng vai trò lớn hơn trong các cơ chế đa phương quốc tế, tương ứng với thế và lực đang tăng lên của Việt Nam, theo đó về cơ bản Việt Nam đang trên đường trở thành một nước ở mức giữa trong khung quốc gia tầm trung, và có thể nâng tầm vai trò lên mức nòng cốt, dẫn dắt và hòa giải, tức là vượt lên mức tuân thủ luật chơi để tiến tới mức tham gia định hình luật chơi nhằm phục vụ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả hơn.

Thứ tư là cách tiếp cận đa ngành, trong đó tham gia vào các hoạt động đối ngoại đa phương bên cạnh vai trò chính của Bộ Ngoại giao còn có các Bộ, ngành khác (ngoại giao Nhà nước), và các binh chủng đối ngoại hợp thành, như đối ngoại Quốc hội, đối ngoại Đảng, ngoại giao nhân dân của Việt Nam, các doanh nghiệp và nhiều thành phần kinh tế khác - tức là huy động sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như của toàn dân Việt Nam; đây đồng thời thể hiện cách tiếp cận đa lĩnh vực, trong đó đa phương không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực chính trị - an ninh, mà cả kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác.

Thứ năm, tư duy đối ngoại đa phương của Đảng vừa là kết quả của công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ đối ngoại, vừa là kết quả của việc nhận thức ngày càng rõ hơn sự vận động của xu thế toàn cầu hóa, xu thế dân chủ hóa và hợp tác cùng phát triển trong các mặt của đời sống quốc tế, trong đó các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế ngày càng gia tăng ảnh hưởng và mở rộng về quy mô và nội dung hợp tác.

Thứ sáu là nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa đa phương trong quan hệ quốc tế đương đại, về chức năng của các cơ chế và tổ chức đa phương mà Việt Nam tham gia, đồng thời thể hiện trình độ cao hơn của đội ngũ cán bộ làm công tác đa phương trong việc sử dụng và khai thác các công cụ thể chế đa phương để đưa đối ngoại đa phương tiếp tục trở thành công cụ hữu hiệu kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới.

 

 

II. Các đề xuất, kiến nghị liên quan đến cụ thể hóa chủ trương đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương từ nay đến 2030

1. Sáu quan điểm chỉ đạo

Một là, đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc, nhất là lợi ích vị thế, an ninh, phát triển, cụ thể là: (i) kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời tích cực góp phần vào việc khẳng định và củng cố các nguyên tắc cơ bản và phổ quát của quan hệ quốc tế được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc và các văn bản pháp quy quốc tế khác; đẩy mạnh hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, vì hòa bình và phát triển, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của khu vực và toàn cầu; (ii) khẳng định vai trò của Việt Nam là thành viên tích cực, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với vị thế, phát triển, an ninh của đất nước. Các khuôn khổ và cơ chế đa phương là nơi thích hợp nhất trong việc nâng cao vị thế của đất nước để từ đó Việt Nam có điều kiện phát triển quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế để giúp đạt mục tiêu an ninh và phát triển một cách thuận lợi hơn.

Hai là, hài hòa lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và khu vực, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của hệ thống quốc tế, nhất là luật pháp quốc tế và tiêu chuẩn hành vi ứng xử khu vực. Chủ động đóng góp vào việc xây dựng luật lệ và chuẩn mực chung, tích cực xây dựng, định hình các cơ chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế công bằng và dân chủ; trước mắt đẩy mạnh đề xuất sáng kiến, đóng góp trí tuệ và nguồn lực vào nỗ lực chung của khu vực và cộng đồng quốc tế; qua đó, bảo vệ và thúc đẩy hữu hiệu lợi ích quốc gia - dân tộc; khai thác hiệu quả hoạt động đối ngoại đa phương, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ và nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Ba là, triển khai đồng bộ đối ngoại đa phương Nhà nước, đối ngoại Đảng, Quốc hội và nhân dân trên các mặt chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội và các mặt khác. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước; phối hợp chặt chẽ  đối ngoại Đảng, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân với ngoại giao Nhà nước, giữa hoạt động đối ngoại với quá trình gia tăng nội lực, đổi mới thể chế trong nước, huy động mọi tiềm năng của toàn xã hội; tăng cường cách tiếp cận liên ngành, kết hợp chặt ché đối ngoại đa phương với đối ngoại song phương, tăng cường đan xen lợi ích với các đối tác.

Bốn là hợp tác đi đôi với đấu tranh trong các diễn đàn, cơ chế đa phương, tạo thêm điều kiện đưa các mối quan hệ song phương đi vào chiều sâu và đan xen lợi ích với các đối tác mà Việt Nam có quan hệ, nhất là nước lớn và láng giềng khu vực. Hợp tác đa phương là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, một mặt  kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế; mặt khác khôn khéo, linh hoạt xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc, quan điểm của quốc gia với những mối quan tâm chính đáng của các thành viên khác tùy theo đối tượng, vấn đề, thời điểm cụ thể, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; không tham gia vào các tập hợp lực lượng của bên này chống bên kia.

Năm là, tạo điều kiện chuyển mạnh hơn sang chủ động tham gia xây dựng luật chơi, không chỉ bó hẹp trong thụ động chấp nhận luật chơi. Trong bối cảnh thế và lực của Việt Nam gia tăng và kinh nghiệm đối ngoại đa phương phong phú hơn, cần chuyển mạnh từ tư duy “gia nhập và tham gia” sang tư duy “chủ động tham gia đóng góp xây dựng và định hình luật chơi chung”, tăng cường cách tiếp cận đa ngành, chú trọng nội hàm phát triển bền vững. Việt Nam chủ trương chủ động đóng góp vào các quan tâm chung, đẩy mạnh đề xuất sáng kiến, ý tưởng và cân nhắc tham gia, đồng khởi xướng các cơ chế hợp tác mới.

Sáu là, xây dựng thứ tự ưu tiên tham gia hoạt động đa phương căn cứ vào thứ tự ưu tiên lợi ích của Việt Nam để từ đó phân bổ nguồn lực hợp lý. Do nguồn lực về tài chính và nhân lực của Việt Nam còn hạn chế nên yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn các thể chế ưu tiên để đầu tư tham gia.

2. Sáu nhiệm vụ cụ thể

Thứ nhất, chủ động và có trách nhiệm xây dựng Cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột chính trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội; thúc đẩy tăng cường vai trò của ASEAN tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương; chủ động tích cực tham gia các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mê Công.

Thứ hai, gia tăng sự gắn kết an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam với an ninh, ổn định và phát triển của khu vực; tích cực ủng hộ và đẩy mạnh nõ lực duy trì môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng và củng cố lòng tin, giải quyết những mối quan tâm chung, ứng phó với các mối đe dọa toàn cầu; thúc đẩy việc tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và phổ quát của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc tế, chủ động, tích cực đóng góp vào việc xây dựng và triển khai các quy tắc, chuẩn mực chung và tham gia vào các cơ chế quốc phòng, an ninh khu vực phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia; tăng cường tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Thứ ba, thực hiện đầy đủ các cam kết đa phương, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở cấp quóc gia và cấp bộ, ngành, địa phương; đẩy mạnh áp dụng, nội luật hóa các tiêu chí, tiêu chuẩn, chuẩn mực của khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực; áp dụng thống nhất các phương pháp tiếp cận, các tiêu chí, tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế trong quá trình xây dựng, triển khai các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; đến năm 2030 phấn đấu cơ bản hài hòa hóa các tiêu chí, quy chuẩn kỹ thuật, chuẩn mực của Việt Nam với khu vực và quốc tế, góp phần nâng cao năng lực quốc gia.

Thứ tư, nâng cao năng lực triển khai đối ngoại đa phương, trên cơ sở mục tiêu đối ngoại, lợi ích của đất nước ở từng giai đoạn chủ động đăng cai tổ chức các hoạt động của các diễn đàn, tổ chức đa phương để nâng cao vị thế, thúc đẩy phát triển và quảng bá đất nước; tích cực đảm nhận trọng trách, ứng cử vào các cơ quan chỉ đạo, điều hành của các cơ chế đa phương; xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Thứ năm, vận dụng hiệu quả các luật lệ, chuẩn mực chung của các cơ chế đa phương nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, địa phương, doanh nghiệp và người dân, trong đó có các tổ chức và người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ sáu, tăng cường công tác thông tin, truyền thông bằng nhiều hình thức sâu rộng để nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương cũng như về trình độ, kỹ năng và phong cách của công dân thời đại mới, công dân toàn cầu.

 

 

3. Sáu định hướng lớn

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tư tưởng và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của đối ngoại đa phương là một định hướng chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam.

Để đạt được điều này, việc cần làm là tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội về nâng tầm đối ngoại đa phương, những việc cần thực hiện để triển khai đối ngoại đa phương đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, các tầng nấc, theo tư duy chủ động đóng góp, tích cực xây dựng và tham gia định hình các cơ chế hợp tác đa phương; Chủ động và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại trước, trong và sau các hoạt động đối ngoại đa phương. Các biện pháp cụ thể bao gồm:

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
quá trình đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đối ngoại đa phương:
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động đối ngoại đa phương của Đảng, Quốc hội, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, đáp ứng yêu cầu mới. Nâng cao vai trò của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế trong chỉ đạo, triển khai các hoạt động đa phương; kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ chế, phương thức phối hợp liên ngành về đối ngoại đa phương.

- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế phù hợp với các luật lệ quốc tế, chuẩn mực chung và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia: Đẩy mạnh thông tin, phổ biến rộng rãi các biện pháp triển khai, nâng cao hiệu quả vận dụng luật lệ, cam kết quốc tế và các chế tài quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước, địa phương, doanh nghiệp và người dân. Thúc đẩy quá trình hài hòa hóa các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chuẩn mực của Việt Nam với khu vực và quốc tế, tăng cường năng lực cạnh tranh và năng lực hội nhập quốc tế.

- Chủ động triển khai các biện pháp nhằm tận dụng các cơ hội và ứng phó hiệu quả các thách thức khi Việt Nam tham gia sâu vào các hoạt động đa phương: Nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị- xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, và Chiến lược tổng thể  hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai đầy đủ Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng ASEAN 2025; Tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị- xã hội, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, xử lý kịp thời các hệ lụy kinh tế - xã hội, môi trường của quá trình tham gia hoạt động đa phương.

- Đẩy mạnh sự tham gia, đóng góp thực chất của các địa phương, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng chính sách và triển khai hợp tác đa phương: Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa địa phương với các cơ quan trung ương trong xây dựng và triển khai các dự án, chương trình hợp tác; nâng cao năng lực của địa phương, doanh nghiệp, thúc đẩy quan hệ đối tác công - tư trong quá trình thực hiện các cam kết, tiêu chí, chuẩn mực của khu vực và quốc tế; Tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, xã hội - dân sự tham gia sâu hơn và đóng góp vào các hoạt động đối ngoại đa phương; Nâng cao vai trò và sự tham gia của các địa phương, đặc biệt là các đô thị loại I, trong tuyên truyền, nâng cao nhận thức về đối ngoại đa phương đến từng sở ngành, doanh nghiệp, người dân; Tăng cường cung cấp thông tin, tham vấn các doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp về các khuôn khổ hợp tác đa phương và các hiệp định thương mại đa phương thế hệ mới; Tăng cường xã hội hóa nguồn lực tham gia các hoạt động đa phương.

Thứ hai, mở rộng nội hàm và nâng tầm sáng kiến gắn với ưu tiên đối ngoại của Việt Nam.

Hoạt động đối ngoại đa phương trong thời gian tới không chỉ gói gọn trong khuôn khổ hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề của Việt Nam, mà còn phải chủ động vươn ra cùng cộng đồng quốc tế giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới. Đặc biệt Việt Nam sẽ cần:

- Chú trọng đẩy mạnh nội hàm phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu trong các hoạt động đa phương, một mặt phục vụ thiết thực Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mặt khác giúp khẳng định vai trò của Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm và uy tín của cộng đồng quốc tế;

- Hợp tác kết nối khu vực, thu hẹp khoảng cách phát triển, đối tác phát triển, tăng trưởng bền vững, giảm nghèo, bình đẳng giới, an ninh nguồn nước, an ninh an toàn hàng hải, an ninh lương thực, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… là những lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu hợp tác quốc tế và có khả năng đóng góp. 

Đây là những nội hàm mới của đa phương có thể tạo ra sức bật mới cho phát triển và vị thế đất nước, xây dựng thương hiệu đối ngoại đa phương của Việt Nam, đồng thời đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực cao độ. Việc xác định đúng và trúng những điểm đột phá của đối ngoại đa phương trong thời gian tới sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc tạo sức bật mới cho sự phát triển và vị thế đất nước.

Thứ ba, ứng cử vào các vị trí, ưu tiên vị trí quản lý, điều hành các cơ chế/tổ chức đa phương. Cho đến nay Việt Nam đã cử nhiều cán bộ ngoại giao có kinh nghiệm vào làm việc tại các vị trí quan trọng của các tổ chức quốc tế như Tổng thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017, Phó Tổng thư ký ASEAN phụ trách Cộng đồng An ninh - Chính trị nhiệm kỳ 2018-2021, và Phó chủ tịch thứ hai của Ủy ban Luật pháp quốc tế, cơ quan chính của Liên hợp quốc trong việc pháp điển hóa và phát triển tiến bộ luật pháp quốc tế nhiệm kỳ 2018 - 2023. Nhằm làm tốt hơn việc cử ngày càng nhiều người Việt Nam hơn vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, nhất là đảm nhận các vị trí quan trọng, hai hướng giải pháp chủ yếu bao gồm: 

Một là, tích cực xây dựng và triển khai chính sách sử dụng, đãi ngộ, nâng cao năng lực nhằm hình thành đội ngũ chuyên gia đa phương theo hướng chuyên nghiệp; tăng cường cử cán bộ làm việc tại các cơ chế đa phương quan trọng, đến năm 2030, hình thành đội ngũ chuyên gia đáng kể của Việt Nam làm việc tại các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng;

Hai là, xây dựng và triển khai kế hoạch chuẩn bị nhân sự để ứng cử vào vị trí lãnh đạo của một số cơ chế đa phương quan trọng, phù hợp với thế và lực mới cũng như nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.

 Thứ tư, đăng cai và hoàn thành tốt vai trò chủ nhà của các sự kiện đa phương quốc tế và khu vực lớn ở Việt Nam, vận động các tổ chức quốc tế và khu vực đặt trụ sở, văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Những năm qua, Việt Nam đã bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế đất nước nhờ các thành công trong việc nhận các trọng trách quan trọng tại các diễn đàn và cơ chế đa phương. Trong thời gian tới, để nâng tầm đối ngoại đa phương, Việt Nam cần tiếp tục phát huy tính tích cực và đóng góp bằng cách đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020,  Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021…, đồng thời tăng cường vận động các tổ chức khu vực, quốc tế đặt trụ sở, văn phòng đại diện ở Việt Nam; đăng cai tổ chức định kỳ hội nghị, diễn đàn về những vấn đề mà khu vực, quốc tế quan tâm và Việt Nam có thế mạnh; Chủ động xây dựng kế hoạch đến năm 2030 về việc đăng cai các hoạt động đa phương và ứng cử vị trí lãnh đạo của các tổ chức khu vực, quốc tế.

Thứ năm, tích cực tham gia xây dựng, sửa đổi các điều ước quốc tế.

 Trước mắt, cần hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn vào 2015 - 2020, nhất là hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN và Tầm nhìn ASEAN sau 2015, tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN; các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), tham gia xây dựng các Mục tiêu phát triển (SDGs) của Liên hợp quốc sau năm 2015, hoàn tất các cam kết gia nhập WTO vào năm 2018 cùng các hiệp định thương mại tự do nhiều bên. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tích cực hơn trong việc tham gia xây dựng, sửa đổi các điều ước quốc tế phù hợp với trách nhiệm quốc tế và lợi ích quốc gia của Việt Nam.

 Thứ sáu, chú trọng nghiên cứu về chủ nghĩa đa phương và các tổ chức/cơ chế đa phương, đào tạo nhân sự tham gia đối ngoại đa phương trong nước và tại các cơ chế, tổ chức đa phương quan trọng, nhất là ASEAN, APEC và Liên hợp quốc.

 Để nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn cho công tác nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và dự báo về lý luận và thực tiễn, xu thế phát triển của chủ nghĩa đa phương. Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu và thực hiện công tác đối ngoại đa phương bởi công tác cán bộ có ý nghĩa then chốt trong triển khai nâng tầm đối ngoại đa phương.

Cụ thể, cần chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng triển khai hội nhập quốc tế nói chung và đối ngoại đa phương cho các cán bộ của các bộ, ban, ngành, địa phương; triển khai tích cực công tác đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác đối ngoại đa phương theo hướng chuyên nghiệp, có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ và kỹ năng đa phương trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa; phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có đội ngũ làm công tác đa phương vững mạnh, nhất là về ASEAN, Liên hợp quốc, WTO, FTA, luật pháp quốc tế, kinh tế phát triển và môi trường.

4. Kiến nghị về phối hợp nhiệm vụ giữa các chủ thể tham gia đối ngoại đa phương

Đối ngoại đa phương phải được triển khai đồng bộ bởi tất cả các chủ thể trong hệ thống đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam cần được mở rộng và đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước. Điều kiện hàng đầu của nâng tầm đối ngoại đa phương Việt Nam là toàn bộ hệ thống chính trị phải cùng vào cuộc. Để làm được điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban ngành, với lực lượng nòng cốt là đội ngũ cán bộ đối ngoại đa phương có bản lĩnh, chuyên nghiệp, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Định hướng chiến lược cụ thể cho từng chủ thể là:

Ngoại giao nhà nước: tích cực chủ động tham gia hoạt động đối ngoại đa phương, tập trung vào ASEAN, APEC, Liên hợp quốc, trong đó ưu tiên việc chủ động tham gia đóng góp xây dựng luật chơi; phối hợp với đối ngoại song phương để đưa quan hệ đi vào chiều sâu, đan xen lợi ích với các đối tác Việt Nam có quan hệ, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về đối ngoại đa phương.

Ngoại giao Đảng: mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các chính đảng để tạo cơ sở chính trị thuận lợi, nâng cao hiểu biết và củng cố sự ủng hộ của các nước đối với lập trường và chính sách của Việt Nam, nhất là trên các vấn đề thuộc ưu tiên lợi ích của Việt Nam, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về đối ngoại đa phương.

Đối ngoại Quốc hội: mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các cơ quan lập pháp để tạo cơ sở chính trị thuận lợi, nâng cao hiểu biết và củng cố sự ủng hộ của các nước đối với lập trường và chính sách của Việt Nam; tạo điều kiện thông qua, sửa đổi nội luật để hỗ trợ đối ngoại đa phương theo hướng phê chuẩn điều ước hiệp định đa phương, tạo điều kiện và giám sát hoạt động đa phương, nâng cao nhận thức về đối ngoại đa phương ở các cấp, bộ ngành ở Việt Nam.

Đối ngoại nhân dân: tích cực tham gia các diễn đàn, đa phương nhân dân để tranh thủ sự ủng hộ, nâng cao hiểu biết, xây dựng hình ảnh tích cực của nhân dân thế giới về Việt Nam; đồng thời nâng cao nhận thức và hành động về đối ngoại đa phương ở các cấp, nhất là địa phương và cơ sở cũng như của toàn thể nhân dân, đưa đối ngoại đa phương thành sự nghiệp của toàn thể nhân dân.

Trong giai đoạn mới, yêu cầu đặt ra đối với đối ngoại đa phương Việt Nam là chuyển từ cách tiếp cận chủ yếu mang tính đơn ngành, song phương, sang cách tiếp cận đa ngành, liên ngành và đa phương. Trước hết, đây là xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, các nội hàm liên kết kinh tế trở nên rộng hơn, sâu hơn rất nhiều, với nhiều đối tác hơn, mang tính liên ngành, đa lĩnh vực, đa tầng nấc, ở mọi cấp độ tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế đan xen phức tạp với các tính toán lợi ích chính trị - an ninh và chiến lược, “sức mạnh mềm” về văn hóa, xã hội, lịch sử… đang là những biện pháp quan trọng của nhiều quốc gia. Trong khi đó, Việt Nam đang triển khai mạnh mẽ hội nhập quốc tế toàn diện, không chỉ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng mà còn hội nhập trên tất cả các lĩnh vực khác. Thêm vào đó, quá trình đàm phán và triển khai các FTA lớn cũng như quan hệ với các đối tác then chốt đang đòi hỏi các bên tham gia phải có tầm tư duy và cách xử lý đa ngành, đa phương và phối hợp liên ngành chặt chẽ.

III. Kiến nghị nội dung về đối ngoại đa phương trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

      Tại Đại hội lần thứ XII, lần đầu tiên đối ngoại đa phương được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng và được xác định là một định hướng chiến lược của đối ngoại Việt Nam. Để làm rõ hơn định hướng đối ngoại đa phương trong giai đoạn này, Hội nghị TW 6 (11/2016) đã thông qua Nghị quyết số 06-NQ/TW (11/2016) về “thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị- xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Nghị quyết đã đề ra một số định hướng mới, với chủ trương “đẩy mạnh, nâng tầm công tác đối ngoại đa phương; chủ động, tích cực tham gia các định chế đa phương, góp phần vào quá trình định hình các cấu trúc khu vực và toàn cầu; tích cực tham gia vào những vấn đề quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước.”

  Triển khai định hướng đó, ngày 8/8/2018, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 25 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, đặt ra yêu cầu phải cụ thể hóa và triển khai các định hướng về mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp của đối ngoại đa phương Việt Nam dựa trên cơ sở thế và lực mới của đất nước và nhằm phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được trong công tác đối ngoại đa phương. 

  Trong bối cảnh đối ngoại đa phương đóng vai trò ngày càng quan trọng trong QHQT đương đại, chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều nước trên thế giới cũng như xuất phát từ thực tiễn đối ngoại đa phương Việt Nam, với tư duy và nhận thức mới về chủ nghĩa đa phương và công tác đối ngoại đa phương, với kinh nghiệm thực tiễn triển khai công tác đối ngoại đa phương thời gian qua, và nhất là với thế và lực mới của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập, và với sự vận động của cục diện thế giới từ nay đến năm 2030, Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi cả về chủ quan và khách quan để vượt qua các thách thức và hạn chế, đưa công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng lên một tầm cao mới vì lợi ích quốc gia dân tộc và vì một vị thế và bản sắc mới của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng.

   Dựa trên kết quả nghiên cứu, Nhóm đề tài kiến nghị đưa vào Văn kiện Đại hội XIII định hướng đẩy mạnh và nâng tầm công tác đối ngoại đa phương trong triển khai tổng thể đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới. Ba kiến nghị cụ thể gồm:

1. Kiến nghị chung về định hướng chính sách

 Đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương nhằm khẳng định mạnh mẽ vai trò của Việt Nam là thành viên tích cực, là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; nỗ lực vươn lên để đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của Việt Nam.

2. Kiến nghị về lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của Nhà nước

Đối ngoại đa phương là sự nghiệp của toàn thể hệ thống chính trị, của toàn dân, cần phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tối cao và toàn diện của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước, và cần phải được triển khai đồng bộ bởi tất cả các chủ thể trong hệ thống đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại đa phương Việt Nam cần được mở rộng và đi vào chiều sâu ở tất cả các kênh đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước.

3. Kiến nghị về nội dung bổ sung vào văn kiện Đại hội XIII

  Thứ nhất, chính thức đưa cụm từ “đẩy mạnh, nâng tầm công tác đối ngoại đa phương” vào văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII.

  Thứ hai, đi kèm với ý trên là cụm từ “tương xứng với thế và lực mới của đất nước và những đòi hỏi của việc bảo vệ hiệu quả hơn lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh quốc tế trong thời gian tới và trong sự hài hòa với lợi ích của các đối tác khác.”

  Thứ ba, nêu bật ý đề cao hơn nữa vai trò của ASEAN trong chính sách đối ngoại của Việt Nam nhất là do ASEAN đóng vai trò then chốt trong chủ trương nâng tầm đối ngoại đa phương của Việt Nam

 

PV (nguồn: Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.27/16-20 )

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết