Thứ Hai, ngày 29 tháng 04 năm 2024

Kiến nghị của đề tài: "Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta: thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp".

Ngày phát hành: 20/07/2020 Lượt xem 8856

 Đề tài: "Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta: thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp". Mã số: KX.04.11/16-20 do TS Vũ Tiến Lộc làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công xuất sắc. Dưới đây là kiến nghị của đề tài..

 

 

1. Kiến nghị thứ nhất: Bổ sung nội dung về “nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta” vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề xuất

Năng lực cạnh tranh là một khái niệm mang tính địa kinh tế, sự xuất hiện và nhận thức về của thuật ngữ này thường đi kèm với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Đại hội Đảng VIII năm 1996, thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” chưa có trong các văn hiện đại hội. Đến Đại hội Đảng IX năm 2001, thuật ngữ “sức cạnh tranh của nền kinh tế” và “năng lực cạnh tranh của nền kinh tế” bắt đầu xuất hiện trong Báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội. Khi đề cập đến nội dung hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng đã đặt ra nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Tại Đại hội Đảng khóa XII năm 2016, Đảng tiếp tục nhìn nhận “... năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường”. Năng lực cạnh tranh lúc này đã được gắn liền với năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế; yêu cầu phát triển nhanh phải gắn với bền vững, và Đảng đã chú ý đến tính giai đoạn của sự phát triển để có những điều kiện phù hợp cho từng giai đoạn. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, Đảng cũng đã chỉ ra nhiều giải pháp, trong đó chú trọng vào việc đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn việc tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng tăng trưởng với việc tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là một Nghị quyết đầu tiên toàn diện nhất về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Chính phủ đã ban hành liên tiếp 6 nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, được biết đến với cái tên Nghị quyết 19 trong các năm 2014-2018 và mới đổi thành Nghị quyết số 02 năm 2019. Theo Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu GCR năm 2017/2018[1] của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam đạt thứ 55/137, tăng 20 bậc so với 5 năm trước (GCR năm 2012/2013). Tuy nhiên, bên cạnh một số tiêu chí tăng hạng tốt, còn có một số chỉ tiêu không những thấp, rất thấp hoặc/và còn tụt hạng. Nếu so với các nước trong khu vực ASEAN, năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn chỉ đứng thứ 7, trên Lào, Campuchia và Myanmar. Điều này cho thấy sự cần thiết phải có các chính sách toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tận dụng các cơ hội hiện nay từ nội tại và quốc tế để phấn đấu thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Kết quả thực tế trên là những căn cứ thực tiễn cho thấy việc cần có một nội dung đề cập đến vấn đề năng lực cạnh tranh trong Văn kiện Đại hội XIII, làm kim chỉ nam cho các chính sách của Quốc hội và Chính phủ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế của đất nước đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.

 

 

1.2. Nội dung về nâng cao Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế

- Nội hàm về năng lực cạnh tranh: Theo quan điểm nổi bật nhất về năng suất là khung khổ phân tích về các nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của Porter (1990, 1998, 2008). Theo đó, khái niệm có ý nghĩa duy nhất về năng lực cạnh tranh là năng suất và có ba nhóm nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia, gồm: (i) Các yếu tố lợi thế tự nhiên của quốc gia (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, quy mô); (ii) NLCT vĩ mô (hạ tầng xã hội và thể chế chính trị, chất lượng chính sách vĩ mô); và (iii) NLCT vi mô (mức độ tinh thông trong chiến lược và hoạt động của công ty, trình độ phát triển cụm ngành, chất lượng môi trường kinh doanh quốc gia).

- Bộ tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh: Quan điểm xuyên suốt là, Việt nam không nên “sáng tác” bộ chỉ tiêu riêng mới, mà để so sánh tương ứng với quốc tế, Việt Nam cần ứng dụng ngay các chỉ số về năng lực cạnh tranh quốc gia đã được thế giới công nhận, trong đó tập trung vào các bộ chỉ số về cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới WEF, môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới WB và bổ sung thêm các tiêu chí từ các bộ chỉ số về Phát triển bền vững SDG của Liên hợp quốc, về đổi mới sáng tạo GII của tổ chức Sở hữu trí tuệ, về công nghệ thông tin và, về phát triển con người HDI và phát triển bao trùm, hài hòa IDI của UNDP... Từ đó, phân tích để tìm ra các con đường nâng cao năng lực cạnh tranh và các giải pháp mang tính đặc thù trong từng khía cạnh, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên, cần phải xác định một cách rõ ràng rằng tự thân bộ tiêu chí với những “tiêu chuẩn quốc tế” không phải là mục tiêu cuối cùng của quá trình nâng cao Năng lực cạnh tranh. Điều này có nghĩa rằng các quốc gia không nhất thiết cứ phải sửa đổi những điểm yếu của mình cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế mà không xét đến bất kỳ mục tiêu quốc gia cụ thể nào. Và như vậy, việc xây dựng tầm nhìn, hay chiến lược dài hạn để nâng cao năng suất quốc gia của Việt Nam mới là điều cần thiết nhất.

- Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Chú ý cả các khâu đột phá và khâu yếu kém, các điều kiện tiền đề và khâu then chốt, tạo nên sự khác biệt: Khi xem xét vấn đề cạnh tranh toàn cầu, cần thấy rõ mối tương quan giữa nỗ lực cạnh tranh của từng quốc gia riêng lẻ. Do đó, một mặt cần chú ý các khâu đột phá để làm đầu tầu tăng trưởng, nhưng không mang tính đột suất riêng lẻ, mà có thể tạo ra xu hướng tiến bộ chung. Đồng thời, cũng cần lưu ý đến các chỉ tiêu còn yếu kém hay tụt hậu để tìm giải pháp chế định các khâu yếu kém, làm cho mức bình quân chung được nâng cao. Trong các chỉ tiêu cạnh tranh cụ thể, cần chú ý các chỉ tiêu mang tính tiền đề phát triển, nhất là về thể chế, nguồn nhân lực, hạ tầng và môi trường. Đồng thời chú ý cả các chỉ tiêu mang tính tạo đột phá về KHCN và thị trường hiện đại và hội nhập.

- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh: Cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh để giải phóng nguồn lực phát triển; Thúc đẩy nâng cao năng suất nội bộ của doanh nghiệp đặc biệt là của khu vực tư nhân; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển thị trường khoa học và công nghệ năng động; Xây dựng cấu trúc kinh tế cân bằng, đa dạng hóa sản xuất và dịch vụ được phát triển song song và được hỗ trợ bởi một ngành nông nghiệp năng suất cao; Đổi mới phương thức phát triển kinh tế vùng, cực tăng trưởng và cụm công nghiệp; Cải thiện một số thị trường đầu vào và đầu ra cho các doanh nghiệp;

2. Kiến nghị thứ 2: Làm rõ hơn nội dung “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập”, bổ sung thuật ngữ “Doanh nghiệp dân tộc” vào trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đưa nội dung “Hộ kinh doanh” vào dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi

2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề xuất

Kinh tế Việt Nam đã có những thành tựu quan trọng sau hơn 30 năm đổi mới. Đóng góp cho những thành tựu này không thể không kể đến chính sách thu hút FDI và vai trò của các doanh nghiệp FDI. Sau 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã thu được một lượng vốn đáng kể, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, nguồn vốn này vẫn chưa được thật sự tận dụng cho nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và quốc gia, đặc biệt là đóng góp vào chuyển giao công nghệ. Trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, vai trò của các doanh nghiệp FDI ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, trong khi vai trò và năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn còn hạn chế.

Tính đến 01/01/2018, số doanh nghiệp FDI tăng tới 54% và lao động tăng tới 62,8% so với thời điểm 01/01/2012; bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số doanh nghiệp FDI tăng 9% và lao động tăng 10,2%, cao hơn 2 lần so với doanh nghiệp nhà nước. Số DN ngoài nhà nước tại thời điểm 01/01/2017 tăng 52,3% và lao động tăng 27,9%, cao hơn DNNN nhưng thấp hơn doanh nghiệp FDI; bình quân năm giai đoạn 2012-2017 số DN ngoài nhà nước tăng 8,8% và lao động tăng 5%. Kết quả này cho thấy DN FDI thu hút nhiều lao động nhất trong 5 năm qua góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, trong năm 2018 xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) đạt 175,5 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2017. Mức xuất khẩu này đã chiếm đến gần 71,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, xuất khẩu không kể dầu thô đạt 173,2 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ 2017 và chiếm 70,7% kim ngạch xuất khẩu. Về nhập khẩu, năm 2018 doanh nghiệp FDI đã nhập khẩu 142,7 tỷ USD, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2017 và chiếm 60,1% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.

Theo Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2019 của Tổng cục Thống kê, khu vực doanh nghiệp FDI mặc dù có số lượng doanh nghiệp, lao động, vốn chiếm tỷ lệ không cao trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhưng tạo ra lợi nhuận lớn nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác với 384,1 nghìn tỷ đồng lợi nhuận, chiếm 43,8% lợi nhuận của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, tăng 17,6% so với năm 2016. Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhất về số doanh nghiệp, lao động và vốn, nhưng chỉ tạo ra khoản lợi nhuận khiêm tốn với 291,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 33,3%, tăng 55%. Khu vực doanh nghiệp nhà nước tạo ra 200,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 22,9%, tăng 1,8%. Nếu xét trong cả giai đoạn 2010-2017, Khu vực FDI là khu vực đang có tốc độ thu hút lao động, thu hút vốn và doanh thu tăng nhanh nhất trong ba khu vực. Bình quân giai đoạn 2010-2017, mỗi năm khu vực này thu hút thêm 11,1% lao động, 17,7% vốn cho SXKD và doanh thu của các doanh nghiệp FDI tăng 22,7%. Trong khi đó tỷ lệ này ở các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước lần lượt là 5,7% lao động, 16% vốn cho SXKD và doanh thu tăng 16,3%.

Như vậy có thể thấy trong khi các doanh nghiệp FDI ngày càng giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, thì vai trò của các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa được thể hiện đúng như kỳ vọng. Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp FDI sẽ khiến cho tính độc lập tự chủ của nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và nguy cơ của các cuộc chiến tranh thương mại. Lịch sử đã chỉ ra rằng, quy luật của vận động tiến hóa là sức mạnh bên trong (nội lực) là yếu tố quyết định, sức mạnh hỗ trợ bên ngoài là cần thiết phải tranh thủ, nhưng không thể thay thế sức mạnh bên trong. Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam cũng cần phải tuân thủ quy luật này. Chính vì vậy cần phát huy nội lực của nền kinh tế thông qua các doanh nghiệp trong nước, hay còn gọi là các doanh nghiệp dân tộc, để tăng tính độc lập và tự chủ của nền kinh tế nước ta.

 

 

2.2. Nội dung và các giải pháp chính

- Phát huy vai trò của các doanh nghiệp dân tộc, khu vực kinh tế tư nhân: Bổ sung thuật ngữ doanh nghiệp dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Doanh nghiệp dân tộc bao gồm doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế, không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước như cách nghĩ của một thời kỳ phát triển nhất định. Việc xây dựng doanh nghiệp dân tộc nên hướng vào những doanh nghiệp đang hoạt động trong những ngành hàng đặc thù vốn là thế mạnh của Việt Nam. Hạt gạo, cà phê, con cá ba sa… của Việt Nam có mặt trên thị trường của hàng chục nước trên thế giới mà vẫn chưa có thương hiệu riêng, nổi tiếng. Có thể nói hiện nay Việt Nam chưa có những công ty tầm cỡ quốc gia.

Để có thể xây dựng và phát huy được vai trò của các doanh nghiệp dân tộc, cải cách để thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân trong nước sẽ cần phải được đẩy mạnh mạnh mẽ, giúp khu vực tư nhân trở thành động lực chính nhằm tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực để loại bỏ những trở ngại cho doanh nghiệp tư nhân và tăng cường môi trường pháp lý. Song song với đó, cải cách DNNN nên tập trung vào việc áp dụng thông lệ quốc tế tốt nhất trong quản trị doanh nghiệp, thông qua Uỷ ban quản lý vốn nhà nước mới thành lập, đồng thời thúc đẩy và tăng cường cổ phần hoá và thoái vốn, đặc biệt là những khoản đầu tư thương mại. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần chuyển từ số lượng sang chất lượng, tập trung vào đầu tư công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn, cũng như chú ý đến khai thác mối liên kết chặt chẽ hơn giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Điều này cuối cùng sẽ giúp khu vực tư nhân trong nước tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh việc tăng cường hỗ trợ, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, DNNVV thì cũng cần xây dựng các doanh nghiệp dân tộc đủ lớn để cạnh tranh, dẫn dắt. Một điểm yếu của Việt Nam là đến nay chưa có các tập đoàn tư nhân mạnh, trong khi đó Hàn Quốc, Nhật Bản có ý thức ngay từ bước đi đầu tiên xây dựng nền kinh tế, là thành lập, khuyến khích phát triển các tập đoàn tư nhân mạnh để làm đối trọng và tạo nền tảng vươn ra toàn cầu. Trong một thời gian dài nước ta chú trọng phát triển các tập đoàn nhà nước, tập đoàn nhà nước phình to bao trùm nhiều lĩnh vực, nhưng hoạt động không hiệu quả, thua lỗ triền miên, chưa thể hiện vai trò là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế.

Cuối cùng, cần tiếp tục thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh và đổi mới sáng tạo để xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc đủ lớn về số lượng, đủ cao về chất lượng để có thể tham gia được vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu hiện nay.

- Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, coi đây là động lực quan trọng và bền vững nhất cho sự phát triển kinh tế

Bất cứ nền kinh tế nào trên thế giới cũng đều xem sự phát triển năng động của khu vực kinh tế tư nhân mới là động lực quan trọng và bền vững nhất của nền kinh tế. Ở Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân hiện bao gồm hơn 700 nghìn doanh nghiệp, 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 13 nghìn hợp tác xã. Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã và đang thể hiện vai trò là động lực quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế, khi mà đóng góp trong GDP của khu vực này đã chiếm đến hơn 40% (trong đó khu vực doanh nghiệp tư nhân khoảng 8,6%, khu vực hộ kinh doanh là 29,3%, kinh tế tập thể 3,8%), cao hơn khu vực kinh tế nhà nước (28,6% GDP) và khu vực có vốn FDI (19,6% GDP).

Mặc dù vậy, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn bị phân biệt và đối xử chưa bình đẳng so với các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp nhà nước vẫn luôn ở “chiếu trên”, được bao cấp, kiểm soát phần lớn nguồn lực quốc gia, hoạt động với cơ chế gần như độc quyền… đã làm méo mó thị trường, chèn lấn khu vực tư nhân. Khu vực FDI được “trải thảm đỏ”, ưu đãi tràn lan, gây bất bình đẳng với doanh nghiệp trong nước. Với những lợi thế đó, các doanh nghiệp FDI đã âm thầm “đi tắt đón đầu” mở rộng sản xuất và đã nâng giá trị xuất khẩu lên hơn 70% tổng giá trị xuất khẩu cả nước hiện nay. Chính vì thế mà khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, sức cạnh tranh chưa cao. Năng suất của khu vực tư nhân trong nước bị giảm sút mạnh, khiến cho khu vực này cũng kém hiệu quả như khu vực nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước thường rất nhỏ, do vậy khó có thể tăng năng suất bằng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, chuyên môn hóa và đổi mới sáng tạo. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhỏ đang ngày càng trở nên thâm dụng vốn, nhưng do thiếu hiệu quả kinh tế quy mô nên năng suất vốn bị suy giảm mạnh. Các doanh nghiệp tư nhân lớn không chỉ ít về số lượng mà thường kém hiệu quả hơn cả các doanh nghiệp nhỏ.

Để phát triển khu vực kinh tế tư nhân, bên cạnh việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng một “Chính phủ Kiến tạo, Chính phủ hành động”, thì cần phải thay đổi cách thức phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tư nhân trên cơ sở thừa nhận và bảo đảm quyền bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp trong các chính sách, cơ chế quản lý và ứng xử của cơ quan nhà nước. Cần thừa nhận kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế, coi khu vực kinh tế tư nhân là nền tảng cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân để làm trụ cột dẫn dắt cho sự phát triển khu vực tư nhân. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển doanh nghiệp cần thay đổi tư duy theo hướng hỗ trợ người thắng cuộc, để giúp các doanh nghiệp này có điều kiện phát triển hơn nữa, trở thành các doanh nghiệp lớn, từ đó chính họ sẽ hỗ trợ, dẫn dắt các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu.

- Nhận thức lại vai trò của khu vực hộ kinh doanh: Bổ sung nội dung về hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp sửa đổi.

Ở Việt Nam, bên cạnh khu vực doanh nghiệp có đăng ký chính thức thì không thể không nhắc đến một bộ phận hết sức quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân đó là cơ sở sản xuất doanh cá thể (hay còn gọi là hộ kinh doanh). Theo kết quả Tổng điều tra của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 01/07/2017 cả nước có 5,1 triệu hộ kinh doanh cá thể. Tỷ trọng các cơ sở đã có giấy chứng nhận ĐKKD chiếm 25,9%, các cơ sở chưa có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chiếm 58,6%, còn lại là các cơ sở đã đăng ký nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận ĐKKD và không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của nhà nước.

Mặc dù hộ kinh doanh cá thể có nhiều hạn chế so với doanh nghiệp về thương quyền do hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân, không được phát hành cổ phiếu, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm và bị hạn chế số lượng lao động... nhưng rất nhiều hộ ngại chuyển thành doanh nghiệp do vấn đề chi phí, đặc biệt chi phí tuân thủ các quy định kế toán đối với doanh nghiệp, áp dụng đối với cả doanh nghiêp vừa và nhỏ khá tốn kém, không hấp dẫn. Chính vì vậy cần có các giải pháp để chính thức hóa khu vực hộ kinh doanh cá thể, khuyến khích những hộ kinh doanh đủ điều kiện lên đăng ký thành doanh nghiệp.

Một điểm đáng lưu ý hơn nữa là đóng góp của khu vực các cơ sở kinh doanh cá thể vào GDP chiếm đến 29,34% năm 2017, trong khi của khu vực doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 8,64%. Tuy có đóng góp quan trọng, nhưng vai trò của khu vực hộ kinh doanh chưa được ghi nhận đúng mức, thể hiện trong việc xét từ góc độ chính sách, hiện nay không có bất kỳ văn bản pháp luật nào quy định về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình có đăng ký kinh doanh. Hộ Kinh doanh vẫn đang nằm ngoài phạm vi của các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành. Ngay cả trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, vai trò của khu vực hộ kinh doanh cũng không được nhắc đến trong các nội dung về đổi mới mô hình tăng trường hay hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Cụm từ “hộ kinh doanh” đã không được nhắc đến trong Văn kiện với vai trò là một bộ phận của kinh tế tư nhân.

Chính vì vậy cần phải nhận thức lại về vai trò và bản chất của các hộ kinh doanh. Các hộ kinh doanh đang làm ăn kinh doanh, có đăng ký kinh doanh, đang tạo việc làm và đang đóng góp vào nền kinh tế. Về bản chất, họ đang hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, vì thế cần ghi nhận họ như một loại hình doanh nghiệp đặc thù. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp hộ gia đình, doanh nghiệp một chủ là thực tế khách quan, ngay cả các nước phát triển hiện nay vẫn đang duy trì loại hình doanh nghiệp này với rất nhiều ưu đãi và hỗ trợ. Do vậy, cần nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò và bản chất của các hộ kinh doanh, bổ sung các quy định về quy phạm pháp luật cho loại hình này trong Luật doanh nghiệp sửa đổi sắp tới.

 

 

3. Kiến nghị thứ 3: Bổ sung nội dung liên quan đến phát triển kinh tế cân bằng và bền vững trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng 

3.1. Thúc đẩy sự phát triển Hà Nội thành một trung tâm kinh doanh, logistics và tài chính, cửa ngõ kết nối các tỉnh phía Bắc với kinh tế toàn cầu

+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề xuất

Sự phát triển giữa các vùng miền không đồng đều là một thách thức quan trọng khác đối với Việt Nam. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung nhiều hơn vào các tỉnh miền Nam, giúp các tỉnh này luôn vượt lên các tỉnh miền Bắc và miền Trung về thu nhập bình quân hàng tháng của người dân, đạt nhiều tiến bộ hơn trong xóa đói giảm nghèo và chất lượng chăm sóc sức khỏe. Sự chênh lệch giữa các vùng miền cũng được thể hiện qua việc so sánh Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hai thành phố lớn nhất của Bắc Bộ và Nam Bộ. Mặc dù cả hai đều là thành phố hàng đầu của Việt Nam, tuy nhiên, thành phố Hồ Chí Minh đã vượt trội hơn Hà Nội về các điều kiện sống và sự sôi động của kinh tế và khoảng cách về GDP bình quân đầu người giữa hai thành phố đã tăng lên đáng kể theo thời gian. Sự bất bình đẳng vùng miền ngày càng lớn hơn có thể khiến Việt Nam trở thành một quốc gia có hai nền kinh tế, do miền Nam phát triển hơn dẫn đến miền Bắc và miền Trung đang bị bỏ lại phía sau. Điều này có thể làm cho Việt Nam có nguy cơ trở nên quá phụ thuộc vào khu vực phía Nam để phát triển, làm tăng bất bình đẳng và giảm sự gắn kết quốc gia.

+ Giải pháp

Giải pháp này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng kết nối trong nước như một phương tiện để giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng miền. Quan trọng hơn, đề xuất này thúc đẩy sự phát triển của Hà Nội, từ đó làm chất xúc tác phát triển miền Bắc hơn. Theo đề xuất này, Hà Nội có thể trở thành:

 (i) Một trung tâm kinh doanh và tài chính, nơi tất cả các doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam sẽ thành lập văn phòng đại diện để được hưởng lợi từ các hoạt động tư vấn kinh doanh và hỗ trợ dịch vụ hành chính từ các cơ quan có thẩm quyền;

(ii) Một cửa ngõ kết nối các tỉnh phía Bắc với nền kinh tế toàn cầu, với các cơ sở sân bay hiện đại, hệ thống giao thông đô thị loại một và liên kết cơ sở hạ tầng liền mạch  với các trung tâm công nghiệp phía Bắc;

(iii) Một trung tâm du lịch với các dịch vụ vận chuyển và kết nối tiên tiến đến các điểm nóng du lịch khác ở miền Bắc;

(iv) Một thành phố sôi động với  dân số trẻ sáng tạo, đổi mới, đam mê kinh doanh; và

(v) Một thành phố đáng sống cho người dân với các dịch vụ công hiệu quả, giá cả phải chăng với mức thu nhập cao do năng suất lao động được cải thiện.

Việc thực hiện thành công các đề xuất nói trên sẽ trực tiếp cải thiện sinh kế của hơn bảy triệu người hiện đang sống tại Hà Nội. Hơn nữa, sự phát triển của Hà Nội như một trung tâm kinh doanh và tài chính sẽ khuyến khích thêm nhiều khu công nghiệp thành lập ở miền Bắc, nhằm khai thác triệt để lợi thế hậu cần và hành chính từ việc liên kết chặt chẽ với thủ đô. Đồng thời, du lịch phía Bắc cũng sẽ tăng nhờ kết nối quốc tế được cải thiện thông qua Hà Nội. Sự phát triển này sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh tế hơn cho người dân sống ở các tỉnh phía Bắc, giúp thu hẹp khoảng cách về chất lượng sống giữa miền Bắc và Nam, do đó ngăn chặn sự xuất hiện "Một quốc gia, hai nền kinh tế".

3.2. Phát triển cấu trúc kinh tế cân bằng, đa dạng hóa, nơi sản xuất và dịch vụ được phát triển song song và được hỗ trợ bởi một ngành nông nghiệp năng suất cao

+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề xuất

Việt Nam đã rất thành công trong việc thu hút FDI, với sự gia tăng ngày càng cao của hàm lượng công nghệ trong hàng xuất khẩu. Tiếp đó, sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các sáng kiến hội nhập đa phương cho phép thúc đẩy hợp tác với các đối tác trong khu vực nhằm tăng tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Đồng thời, Việt Nam cũng được hưởng lợi từ việc chuyển đổi các cơ sở sản xuất từ Trung Quốc xuống phía Nam. Đây là một cơ hội vô giá nếu được khai thác tốt sẽ thúc đẩy Việt Nam trở thành một cơ sở sản xuất hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, cánh cửa dẫn đến tăng trưởng nhờ sản xuất của Việt Nam có thể nhỏ hơn đáng kể so với Trung Quốc. Đổi mới công nghệ, đặc biệt là tự động hóa và in 3D, cũng như giảm tỷ lệ nhân khẩu học do sự tăng nhanh dân số già của Việt Nam sẽ làm giảm lợi thế hiện tại của Việt Nam trong hoạt động sản xuất trong thời gian tới. Do đó, điều quan trọng là Chính phủ cần tăng cường nỗ lực thực hiện các biện pháp về mặt chính sách, xây dựng theo các nguyên tắc của chính sách công nghiệp tiên phong để đảm bảo vai trò của Việt Nam như một trung tâm sản xuất ở Châu Á với các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao và thích nghi nhanh chóng.

Ngoài ra, tương lai Việt Nam là công xưởng sản xuất gắn liền với ASEAN. Một ASEAN có tính liên kết cao đóng vai trò quan trọng đối với các quyết định tái định cư và mở rộng của các MNCs. Theo Khảo sát Thị trường ASEAN năm 2014 do Phòng Thương mại Mỹ tiến hành, khoảng 3/4 số người tham gia khảo sát từ các công ty Hoa Kỳ hoạt động tại ASEAN coi hội nhập ASEAN là quan trọng cho hoạt động kinh doanh của họ. Tương tự như vậy, Liên đoàn Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản trong ASEAN nhấn mạnh việc tăng cường các mạng lưới sản xuất của các công ty Nhật Bản sẽ được thực hiện tốt hơn nếu thị trường ASEAN trở nên tích hợp hơn. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục hỗ trợ chiến lược hội nhập ASEAN trong tương lai, đóng vai trò chủ đạo trong nhóm nhỏ của CLMV để hoàn thành các sáng kiến hội nhập theo kế hoạch chi tiết của AEC.

Đồng thời, điều quan trọng là Việt Nam phải chuẩn bị cho cải cách để đảm bảo nền kinh tế có thể đối phó với những thách thức về cơ cấu và những đột phá trong tương lai. Chính sách quan trọng cần được ưu tiên là phát triển ngành dịch vụ song song với ngành sản xuất. Lý thuyết kinh tế cho thấy dịch vụ ngày càng trở nên quan trọng như một động lực tăng trưởng và là nguồn tạo việc làm khi nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành dịch vụ không phải là tiến trình tự nhiên đạt được thông qua các lực lượng thị trường.

Do các yếu tố sản xuất tiếp tục được chuyển dịch sang lĩnh vực chế tạo và dịch vụ, cải thiện năng suất nông nghiệp là rất quan trọng để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực. Hơn nữa, tăng năng suất sẽ giúp cho ngành nông nghiệp trở thành một kênh tăng trưởng mạnh mẽ, đóng góp vào nền kinh tế năng động và đa dạng.

Điều này thể hiện tầm nhìn của Việt Nam để trở thành trung tâm sản xuất tiếp theo ở châu Á, một trung tâm tiềm năng cho các ngành công nghiệp dựa trên dịch vụ và là một quốc gia sản xuất nông nghiệp lớn trên thế giới. Trong nỗ lực đạt được các mục tiêu này, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các cản trở đối với quá trình phát triển để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa thông qua một chính sách công nghiệp tiên phong.

+ Giải pháp

Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp ở Việt Nam

- Xác định cơ hội để nâng cao năng lực sản xuất trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu;

- Phát triển các cụm sản xuất có hiệu quả về chi phí thông qua hợp tác với các đối tác công nghiệp tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu;

- Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi thông qua việc tinh giản các quy tắc và các quy định nhằm giảm đáng kể chi phí kinh doanh;

- Đảm bảo sân chơi công bằng giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, loại bỏ các rào chắn và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa tất cả các doanh nghiệp;

- Thúc đẩy các DNVVN trong nước trở thành nhà cung cấp tin cậy của các công ty đa quốc gia và có khả năng hấp thụ các công nghệ, áp dụng thực tiễn tốt nhất trên toàn cầu;

- Đẩy mạnh công nghệ và chuyển giao kiến thức từ các MNCs cho các doanh nghiệp trong nước;

- Khuyến khích liên kết liên ngành để tăng cường chuỗi giá trị;

- Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, có khả năng thực hiện các hoạt động chuyên sâu về công nghệ và kiến thức chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu;

- Cải thiện mạng lưới giao thông và tăng cường khả năng tiếp cận các trung tâm sản xuất nội địa thông qua duy trì và mở rộng các con đường chiến lược, đường cao tốc, cảng biển và sân bay;

- Chỉ định các khu công nghiệp được áp dụng ưu đãi thuế đối với các MNCs làm bàn đạp để phát triển quy chế, doanh nghiệp và thể chế, qua đó mở đường cho việc cải cách cơ cấu sâu rộng hơn.

Các giải pháp phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam

- Xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp thúc đẩy thị trường dịch vụ cạnh tranh và hiệu quả;

- Đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các ngành dịch vụ phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực hậu cần và du lịch;

- Tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành CNTT thông qua việc tự do hóa thị trường và nâng cấp các mạng viễn thông và mạng băng thông rộng. Công nghệ thông tin làm cho các dịch vụ khác có thể giao dịch, tạo ra những tác động lan tỏa tích cực cho các khu vực khác của nền kinh tế.

Các giải pháp phát triển ngành nông nghiệp năng suất cao cho Việt Nam:

Liên quan đến việc thúc đẩy tăng năng suất nông nghiệp, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Malaysia. Trường hợp của Malaysia nhấn mạnh thực tế nông nghiệp có thể là một phần của quá trình công nghiệp hóa trong một cấu trúc kinh tế kép, tăng cường sức cạnh tranh toàn quốc và phát triển kinh tế. Trên thực tế, thành công của Malaysia về nông nghiệp có thể là do nỗ lực phối hợp của quốc gia này trong bốn lĩnh vực: thúc đẩy ngành nông nghiệp cạnh tranh;  hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp nông nghiệp và các viện nghiên cứu; gắn các hộ sản xuất  nhỏ vào chuỗi giá trị nông nghiệp và cung cấp cơ sở hạ tầng, tín dụng và các dịch vụ khuyến nông.

- Xác định và phát triển các thị trường ngách về sản phẩm nông nghiệp dựa trên khí hậu, ưu đãi thiên nhiên và khả năng cạnh tranh cốt lõi, nhằm mục đích cạnh tranh với những sản phẩm quốc tế;

- Đẩy mạnh liên kết giữa nông nghiệp và sản xuất dựa vào tài nguyên trong một cấu trúc kinh tế kép;

- Phát triển các ngành nông nghiệp thông qua việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp nông nghiệp phát triển và hợp tác công tư;

- Xác định cơ hội để phân chia theo ngành dọc các ngành nông nghiệp, lồng ghép các nhà sản xuất nhỏ vào chuỗi giá trị nông nghiệp, qua đó tăng thu nhập và giảm nghèo ở nông thôn;

- Nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp bao gồm hệ thống thoát nước và hệ thống thủy lợi, đường bộ, cảng biển và điện để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người nông dân;

- Thúc đẩy và khuyến khích nhà nước và tư nhân cùng nghiên cứu và phát triển nông nghiệp để nâng cao năng suất, phát triển các công nghệ thân thiện với môi trường và bền vững, ví dụ như tạo ra các loại cây trồng mới có khả năng kháng sâu bệnh;

- Cải thiện quản lý tài nguyên để kích thích sự tăng trưởng của TFP nông nghiệp;

- Cung cấp các chương trình tín dụng ưu đãi và dịch vụ khuyến nông cho nông dân để tăng cường khả năng tiếp cận vốn và công nghệ mới, qua đó tăng năng suất và nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu./.

 

PV (nguồn: Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.11/16-20 )

 

 

 

 



[1] Mặc dù WEF đã công bố báo cáo GCR năm 2018/2019, tuy nhiên do báo cáo này sử dụng cách tiếp cận mới trong bối cảnh cuộc cách mạng CN 4.0, nên phương pháp nghiên cứu có thay đổi so với báo cáo các năm trước.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết