Thứ Bảy, ngày 27 tháng 04 năm 2024

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi thực hiện Cương lĩnh 2011 tới nay

Ngày phát hành: 31/05/2019 Lượt xem 12633


Bối cảnh triển khai Cương lĩnh 2011 có nhiều khó khăn, thách thức trong môi trường chiến lược. Đó là hệ quả nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội... của cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 – 2009, sự nổi lên của làn sóng “mùa xuân Ả-rập” và các cuộc xung đột, nội chiến ở Trung Đông, Bắc Phi cũng như các trào lưu bảo hộ thương mại, chống toàn cầu hóa, dân túy, dân tộc chủ nghĩa trên toàn thế giới... Phong trào cánh tả trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Mỹ La-tinh cũng thoái trào do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự nổi lên của các lực lượng cánh hữu, cực đoan ở nhiều quốc gia trên thế giới. Giai đoạn từ 2011 đến nay cũng là khoảng thời gian môi trường chiến lược sát sườn của ta diễn biến bất ổn, khó lường, ta chịu sức ép cả từ hướng Đông và hướng Tây, thể hiện rõ qua các vụ việc trên Biển Đông như Bình Minh 02, Viking 2, HD-981, và việc các nước thượng nguồn sông Mê Công đẩy mạnh triển khai xây dựng đập thủy điện dòng chính. Tuy nhiên, ta cũng đứng trước nhiều thuận lợi, cơ hội như sự dịch chuyển trung tâm quyền lực của thế giới về khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, sự phát triển năng động và liên kết kinh tế khu vực mạnh mẽ ở Châu Á-Thái Bình Dương, sự ra đời của Cộng đồng ASEAN cuối năm 2015... Nhìn chung, ta đã tranh thủ được nhiều cơ hội, đồng thời xử lý tương đối hài hòa, ổn thỏa các thách thức.

Đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại mà Đảng ta đề ra tại Cương lĩnh 2011 cũng như các kỳ Đại hội Đảng XI và XII, có thể khẳng định đến nay, gần 10 năm sau khi triển khai Cương lĩnh, ta đã đạt và vượt các mục tiêu đề ra, đồng thời xử lý hài hòa các vấn đề nảy sinh ngoài dự kiến, nhất là những sự cố, khủng hoảng như việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (1/5-15/7/2014).

Trong triển khai đối ngoại, ta đã vận dụng tốt bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bám sát nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Công tác đối ngoại đã được sự quan tâm chỉ đạo và tham gia trực tiếp của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như sự ủng hộ, tham gia của Nhân dân.

Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại nhân dân, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp ngày càng được triển khai đồng bộ, toàn diện. Cơ chế phối hợp, hiệu quả hoạt động tác chiến trong đối ngoại được thực hiện nghiêm túc theo Quy chế 272 về quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo nên sức mạnh cộng hưởng triển khai hiệu quả công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Nhờ đó, đối ngoại đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các nhiệm vụ: (i) Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; (ii) Chủ động và tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, tăng cường ngoại giao đa phương, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa; (iii) Xử lý hiệu quả quan hệ với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tiếp tục đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, thực chất, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

1. Những kết quả quan trọng trong việc triển khai đường lối đối ngoại của Đảng ta, đặc biệt là chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

(1) Kết quả triển khai công tác đối ngoại

Trước hết, công tác đối ngoại đã góp phần duy trì, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa.

Trước những biến động nhiều mặt rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, ta đã có những quyết sách đúng đắn, bước đi phù hợp để ngăn ngừa chiến tranh và xung đột, xử lý hài hòa các vụ việc, bất đồng, cố gắng tăng mặt “đối tác”, giảm mặt “đối tượng” của các nước, không để leo thang thành xung đột, qua đó đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt phương châm giữ nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Cùng với quốc phòng - an ninh, đối ngoại đã tham gia tích cực vào công tác phân giới cắm mốc, mở các cửa khẩu mới, quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ là đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng[1].

Bằng các biện pháp hòa bình, Việt Nam đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích của đất nước trên Biển Đông, không để tranh chấp leo thang thành căng thẳng, xung đột. Ta đã chủ động, tích cực vận động, thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng, và những vấn đề tồn tại liên quan đến phân định ranh giới biển, nhờ đó bảo vệ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Đồng thời, ta nỗ lực tìm kiếm các giải pháp thỏa đáng lâu dài cho vấn đề biển Đông. Ta có nhiều đóng góp quan trọng trong việc ASEAN và Trung Quốc chính thức khởi động đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và đang đi đầu thúc đẩy đàm phán một COC thực chất, hiệu lực và ràng buộc. Bên cạnh đó, Việt Nam đẩy mạnh trao đổi và làm việc ở các cấp và các cơ chế về vấn đề phân định vùng đặc quyền kinh tế với In-đô-nê-xi-a, báo cáo chung ranh giới thềm lục địa quá 200 hải lí với Ma-lai-xi-a, tiếp tục triển khai các cơ chế họp Nhóm công tác ngoài Cửa Vịnh Bắc Bộ, Nhóm công tác hợp tác cùng phát triển và Nhóm công tác về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Các nhóm công tác tích cực thúc đẩy đàm phán giải quyết các vấn đề trên biển với Trung Quốc quacơ chế 02 Trưởng đoàn đám phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ và 03 cơ chế đàm phán cấp chuyên viên…

Công tác đối ngoại đã kiên quyết đấu tranh trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, kịp thời xử lý khía cạnh đối ngoại của các vụ việc phức tạp, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đóng góp của Việt Nam tại Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc và các Báo cáo rà soát phổ quát định kỳ (UPR) được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Kết quả của các hoạt động này đã làm cho các nước hiểu rõ và đúng hơn về quyền con người tại Việt Nam và nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong bảo đảm thực hiện quyền của mọi người dân. Đó cũng là cơ sở làm thất bại nhiều âm mưu xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và dân tộc ta.

Việc thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh đã góp phần quan trọng làm giảm mặt “đối tượng” của một số nước đối với ta trong vấn đề bảo vệ an ninh chế độ. Giai đoạn từ 2011 đến nay, ta đã khai thác tốt giá trị chiến lược của đất nước, xử lý hài hòa các khác biệt, qua đó Mỹ đã lần đầu tiên khẳng định cả bằng văn bản và trong hành động thực tế việc tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam. Trong các Tuyên bố chung Việt – Mỹ các năm 2013, 2015 và 2017 cũng như qua việc đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Mỹ năm 2015, Mỹ đã thể hiện tôn trọng, đánh giá cao vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng ta. Ý đồ “diễn biến hòa bình” của Mỹ luôn là một phần trong chính sách đối với Việt Nam, nhưng có thể nói từ giai đoạn 2011 đến nay không còn là một trong những ưu tiên chính. Tương tự, trong quan hệ với Trung Quốc, ta đã cố gắng hạn chế mặt “đối tượng” của Trung Quốc trong ý đồ và tham vọng lãnh thổ, biển đảo. Mặc dù Trung Quốc đang quyết liệt thực hiện ý đồ hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò”, song cơ bản ta đã thực hiện tốt phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên biển, qua đó đến nay vẫn giữ vững các lợi ích chiến lược và chính đáng của ta ở Biển Đông, nhất là 200 hải lý Vùng đặc quyền kinh tế, 21 đảo/bãi, 33 điểm đóng quân và 15 nhà giàn DK1 trên thềm lục địa phía đông nam.

Hai là, ta đã làm sâu sắc hơn  nữa quan hệ với các nước, tăng đan xen lợi ích, đặc biệt là với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống.

Công tác đối ngoại qua các kênh, các lực lượng, đặc biệt là đối ngoại cấp cao, các bộ, ban, ngành và địa phương củng cố và thắt chặt quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, nòng cốt là phát triển lòng tin, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi. Từ khi thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đến nay, Việt Nam đã thiết lập thêm được quan hệ Đối tác chiến lược với 9 nước trong tổng số 16 ĐTCL của ta hiện nay là Đức, Pháp, Italia, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Úc; thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với 6 nước là Hoa Kỳ, Đan Mạch, Mi-an-ma, Ca-na-đa, Hung-ga-ri và Bru-nây trong tổng số 13 Đối tác toàn diện của ta đến nay. Trong giai đoạn này, ta cũng đã nâng cấp  quan hệ với Nga và Ấn Độ lên “Đối tác chiến lược toàn diện”, với Nhật Bản lên “Đối tác chiến lược sâu rộng”, và đang hướng tới thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Niu Di-lân, nâng cấp quan hệ với Hàn Quốc lên Đối tác chiến lược toàn diện. Ta đã có các bước tiến đáng kể trong việc đưa các mối quan hệ này đi vào chiều sâu, tin cậy chính trị được nâng cao rõ rệt, đan xen lợi ích và các cơ chế hợp tác được củng cố.

Một số nút thắt lâu nay trong quan hệ với một số nước quan trọng như chất lượng một số dự án hợp tác kinh tế với Lào, địa vị pháp lý lâu dài của người Việt ở Cam-pu-chia, nhập siêu với Trung Quốc đang từng bước được giải quyết. Việt Nam đã chủ động, kịp thời xây dựng quan hệ với chính quyền Trump ở Mỹ; đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, Liên minh Châu Âu, các nước đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống trên các châu lục. 

Đáng chú ý, trước sự chủ động, tích cực của ta, một số nước đối tác quan trọng có những bước đi chưa từng có tiền lệ với Việt Nam: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình lần đầu tiên thăm Việt Nam ngay sau Đại hội 19, lần đầu tiên Lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước thăm nhau trong cùng một năm (2017). Tổng thống Mỹ Trump thăm Việt Nam và đón Lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm chính thức Mỹ ngay trong năm đầu tiên lên cầm quyền, và là Tổng thống Mỹ đương nhiệm đầu tiên trở lại thăm Việt Nam trong vòng chưa đầy 2 năm. Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản lần đầu tiên thăm Việt Nam. Ấn Độ, Liên Minh Châu Âu (EU), Hàn Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong “Chính sách hướng Nam mới”,“Kết nối với châu Á”... Cục diện hòa bình, hữu nghị và hợp tác trong quan hệ với các nước được củng cố thêm một bước, đặc biệt là với các nước láng giềng khu vực và các đối tác lớn, quan trọng.

Ba là,thể hiện phương châm“là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, ta ngày càng chủ động và đã đạt được một số thành công bước đầu trong việc nâng tầm đối ngoại đa phương, thực hiện được phương châm chủ động, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương mà Đại hội Đảng XII đã đề ra.

Ngày 8/8/2018, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 25 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một văn bản chỉ đạo riêng về đối ngoại đa phương. Nhận thức của các bộ, ban, ngành, địa phương cả nước về vai trò của đối ngoại đa phương được nâng lên một bước.

Ta đã khẳng định được vai trò và vị thế trên các diễn đàn quốc tế. Một trong những đóng góp rất quan trọng của Việt Nam cho lợi ích chung của khu vực là tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2017. Trong bối cảnh Mỹ điều chỉnh chính sách coi trọng song phương hơn đa phương, chủ nghĩa bảo hộ và đơn phương gia tăng, với tư cách chủ nhà, ta đã góp phần quan trọng giữ vững các giá trị cốt lõi của APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư, ủng hộ hệ thống thương mại đa phương, đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác dài hạn cho khu vực trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa,nhỏ và siêu nhỏ, thương mại điện tử..., đưa hợp tác APEC sang một giai đoạn phát triển mới phục vụ thiết thực các mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước.

Ta đã chủ động đi đầu trong nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thân của ta trong ASEAN và các cơ chế liên quan, đóng vai trò quan trọng củng cố đoàn kết, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại của ASEAN với các đối tác bên ngoài. Việt Nam đã thúc đẩy hợp tác Tiểu vùng Sông Mê Công nhằm bảo vệ những lợi ích thiết thân của đất nước trong tình hình mới. Đáng chú ý, ta đảm nhiệm ngày càng nhiều trọng trách quốc tế, đóng vai trò tích cực và chủ động hơn trong các cơ chế quản trị toàn cầu như Liên hợp quốc và các tổ chức liên quan, Diễn đàn hợp tác Á - Âu, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), G20, G7... Ta đã chuyển mạnh từ phương châm tích cực tham gia sang chủ động đóng góp, xây dựng, định hình, từng bước tham gia xây dựng luật chơi chung.

Đặc biệt, ta đã thành công trong việc tận dụng vị thế mới của đất nước trong đối ngoại đa phương để tranh thủ thúc đẩy quan hệ song phương với các đối tác lớn, đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ, các nước ASEAN và các Đối tác chiến lược quan trọng ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao APEC 2017, ta đã đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam; tổng số các thỏa thuận, hợp đồng được ký kết trong các hoạt động song phương với các đối tác dịp Tuần lễ cấp cao APEC 2017 lên tới 20 tỷ USD, gấp 10 lần so với năm APEC Việt Nam 2006. Quan trọng hơn, vị thế của ta trong ASEAN, APEC và các diễn đàn khu vực, quốc tế quan trọng khác đã góp phần nâng cao giá trị chiến lược của ta trong chính sách khu vực của các nước lớn.

Bốn là, triển khai đường lối đối ngoại đã góp phần trực tiếp vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho phát triển, tranh thủ khai thác vị thế đi lên của đất nước và hợp tác chính trị - ngoại giao cho phát triển kinh tế - xã hội.

Các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước đều có những nội dung kinh tế rất quan trọng, ký kết nhiều văn kiện, thỏa thuận hợp tác. Đối ngoại đã tích cực: (i) tư vấn, thông tin tới nhiều địa phương trong nước về chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư của các nước, các doanh nghiệp nước ngoài; (ii) thúc đẩy địa phương, doanh nghiệp các nước thăm, tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh tế, thương mại tại các địa phương Việt Nam; (iii) củng cố, thiết lập mới và tăng tính thiết thực của quan hệ hữu nghị, kết nghĩa giữa địa phương các nước với địa phương nước ta; (iv) phối hợp giải quyết một số vấn đề nảy sinh giữa địa phương với các đối tác nước ngoài; (v) hỗ trợ các địa phương Việt Nam tham gia hiệu quả trong các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. Các hoạt động này tạo cơ hội giúp các địa phương xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các sản phẩm địa phương, đặc biệt là hàng nông sản, đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, quản lý đô thị, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, môi trường, xử lý nguồn nước, ứng phó biến đổi khí hậu...

Kinh tế đối ngoại đã đóng góp rất quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Theo báo cáo của Chính phủ, sau 30 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài (1988), tính đến tháng 9/2018, ta đã thu hút được tổng số vốn FDI đăng ký là 334 tỷ USD từ 128 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ta đạt mức kỷ lục 482 tỷ USD, gấp 2 lần GDP, đưa Việt Nam vào nhóm 30 nền kinh tế xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, ta đã chuyển sang cân bằng xuất – nhập khẩu, bước đầu có xuất siêu (năm 2018 xuất siêu 7,2 tỷ USD). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 25 năm, từ 1993 đến ta ta đã thu hút được khoảng 80 tỷ vốn ODA, trong đó 7 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại, trên 70 tỷ USD là vốn vay với lãi suất dưới 2% và 1,62 tỷ USD vốn vay kém ưu đãi nhưng lãi suất thấp hơn vốn vay thương mại.

Năm là, các trụ cột và lĩnh vực quan trọng khác của công tác đối ngoại như ngoại giao văn hóa, thông tin tuyên truyền đối ngoại, công tác người Việt Nam ở nước ngoài và công tác bảo hộ công dân được triển khai hiệu quả.

Ngoại giao văn hóa đã góp phần quan trọng quảng bá hình ảnh đất nước. Ta đã vận động thành công UNESCO công nhận nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có 38 danh hiệu được UNESCO công nhận. Thông tin đối ngoại đã có nhiều đổi mới, góp phần tạo hiệu ứng tuyên truyền tích cực về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành tựu phát triển của đất nước. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, vận động kiều bào hướng về đất nước, thúc đẩy dạy tiếng Việt và sớm ổn định địa vị pháp lý, hội nhập với sở tại của người Việt Nam ở nước ngoài,góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc cũng như củng cố cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông.Công tác bảo hộ công dân đứng trước nhiều thách thức lớn nhưng đã kịp thời đảm bảo kịp thời lợi ích của cá nhân và tổ chức Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân, ngư dân gặp khó khăn ở nước ngoài.

(2) Kết quả triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế  

Nếu như Cương lĩnh 2011 và Đại hội Đảng XI đề ra chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thì Đại hội Đảng XII khẳng định rõ hơn: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Nghĩa là, đây là chủ trương lớn, mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước từ giai đoạn 2011 đến nay cũng như trong nhiều năm tới.

Từ khi thực hiện Cương lĩnh 2011 đến nay, ta đã đẩy mạnh triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cả về mặt xây dựng chính sách, chiến lược cũng như trong triển khai thực tế, đồng thời xử lý tốt những khó khăn, trở ngại phát sinh ngoài dự kiến trong quá trình triển khai chủ trương này.

Về công tác hoạch định chủ trương, chính sách, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22 về hội nhập quốc tế (4/2013). Chính phủ đã xây dựng và công bố Chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Chương trình hành động để triển khai Chiến lược này. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết số 06 (tháng 11/2016) về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Các bộ, ngành và địa phương đều xây dựng và triển khai các chiến lược nhánh trong lĩnh vực phụ trách để thực hiện Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế.

Trong triển khai thực tiễn, trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, ta đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực từ chính trị - ngoại giao đến quốc phòng, an ninh, văn hóa – xã hội... Đặc biệt, hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều bước tiến về chất, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực bên ngoài để xây dựng đất nước và tạo động lực cho đổi mới thể chế kinh tế trong nước.

Về hội nhập kinh tế quốc tế, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song phương, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, khoảng 70 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.[2] Ta cũng đã trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, các tổ chức tài chính toàn cầu như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, các tổ chức hợp tác kinh tế-xã hội trong khuôn khổ LHQ và nhiều tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, Tiểu vùng Mê Công mở rộng.

Đến nay, ta đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 59 đối tác, gồm 10 hiệp định đã có hiệu lực, 1 FTA đang chuẩn bị có hiệu lực, 1 FTA đang trong quá trình hoàn tất để thông qua và 4 FTA đang đàm phán. Đến nay, ta đã vận động được 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Ta đã tham gia ngay từ đầu quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tham gia với tư cách thành viên sáng lập của Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) và nhiều cơ chế hợp tác khu vực, liên khu vực và tiểu vùng khác như Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI), cơ chế Hợp tác Mê Công – Lan Thương, Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công (LMI)...

Giữa những khó khăn, thách thức chưa từng thấy do làn sóng chống toàn cầu hóa và bảo hộ thương mại ở nhiều nơi trên thế giới, ta vẫn kiên trì, có những bước đi chủ động, có tính toán nhằm tiếp tục đưa đất nước ta hội nhập sâu hơn vào thế giới một cách có lộ trình, phù hợp với nhu cầu và điều kiện đất nước.

Đặc biệt, ta đã cùng các nước thành viên ứng phó kịp thời, phù hợp trước việc Mỹ rút khỏi Hiệp định đối tác xuyên thái Bình dương (TPP). Ta đã cùng các đối tác thúc đẩy thành công việc ký, phê chuẩn và triển khai Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)[3]. Ta đã đẩy mạnh vận động Liên minh châu Âu (EU) và các nước thành viên hoàn tất rà soát pháp lý và sớm ký kết, phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) và thống nhất nội dung Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA). Ủy ban châu Âu đã thông qua EVFTA và chuyển lên Hội đồng châu Âu xem xét đồng ý ký chính thức. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Trung – Mỹ gay gắt hơn, ta chủ động, tích cực xử lý hài hòa quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, nhất là qua việc tác động góp phần tranh thủ mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các sáng kiến, chiến lược mà Trung Quốc và Mỹ thúc đẩy như sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPS).

Về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh và chính trị - ngoại giao, đến nay, trong tổng số 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc mà ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao, ta đã có quan hệ hợp tác quốc phòng chính thức với 65 nước, đặt Văn phòng tùy viên Quốc phòng tại 31 nước và có 42 nước có Văn phòng tùy viên Quốc phòng tại Việt Nam. Từ năm 2014, ta đã tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Ta đã được bầu và đảm nhận tốt trọng trách tại nhiều cơ quan quan trọng của Liên Hợp Quốc như thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (2013-2015), Hội đồng Nhân quyền (2014-2016), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (2016-2018), Ủy ban Luật thương mại quốc tế (2019-2025) và tới đây là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 (ta là ứng cử viên duy nhất được Nhóm Châu Á-Thái Bình Dương đề cử).

Các cơ chế Đối thoại chính sách quốc phòng, an ninh, giao lưu quốc phòng, tuần tra chung, diễn tập chung cả ở kênh song phương và đa phương với các đối tác lớn như Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, các nước ASEAN, Úc, Niu Di-lân và nhiều nước lớn ngoài là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Anh, Pháp được thúc đẩy, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau và lòng tin, thu hẹp bất đồng, khác biệt. Nhờ đó, mặc dù thời gian qua cạnh tranh, cọ xát chiến lược giữa các nước lớn quyết liệt hơn, song ta vẫn duy trì, thúc đẩy được quan hệ, tăng cường lòng tin chính trị với tất cả các nước lớn như Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ.

Cùng với quá trình hội nhập sâu hơn về quốc phòng – an ninh và chính trị - ngoại giao, ta đã bước đầu khẳng định được vai trò, vị thế trong các diễn đàn hợp tác an ninh đa phương quan trọng ở khu vực và trên thế giới. Lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta nhiều lần được các nước chủ nhà mời phát biểu dẫn đề tại các cơ chế hợp tác đa phương như Đối thoại An ninh Shangri-La, Diễn đàn Hương Sơn… Quan điểm, tiếng nói của ta về các vấn đề an ninh khu vực được các nước, kể cả các nước lớn, coi trọng và đánh giá cao, thậm chí trong một số vấn đề được các đối tác xem là tiêu biểu, nguyên tắc trong ứng xử đối ngoại.

Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, thể thao, du lịch… cũng đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần đưa nước ta ngày càng trở thành một phần quan trọng của cộng đồng quốc tế. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước, mỗi năm có khoảng 7-8 triệu người Việt Nam đi du lịch, công tác, học tập… ở nước ngoài. Con số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cũng liên tục tăng, trong đó năm 2018 đạt mức kỷ lục 15,5 triệu lượt người. Mức độ gắn kết, liên thông giữa hội nhập trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng – an ninh, chính trị - ngoại giao và văn hóa – xã hội ngày càng tăng theo chiều hướng tích cực.

2. Một số tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, giữa Trung ương với các địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác đối ngoại. Việc thực hiện Quy chế 272 về Quản lý thống nhất đối ngoại, quản lý các đoàn đi công tác nước ngoài theo ngân sách Nhà nước cần tiếp tục được thực hiện nghiêm túc hơn.

Thứ hai, công tác triển khai hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm và sớm khắc phục: nhận thức của các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự đầy đủ, thống nhất, công tác phối hợp chưa hiệu quả; việc thực hiện các cam kết chưa đầy đủ và đồng bộ; thông tin cho các doanh nghiệp và người dân về hội nhập quốc tế, Cộng đồng ASEAN, CPTPP…còn hạn chế; sự chuẩn bị trong nước còn chậm, thiếu chủ động.

Thứ ba, việc theo dõi, triển khai, đôn đốc thực hiện các thỏa thuận, cam kết quốc tế đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn các “điểm nghẽn” trong quan hệ với một số đối tác quan trọng, hiệu quả triển khai kết quả, thỏa thuận của các chuyến thăm chưa cao. Văn hóa thực thi vẫn là một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ tư, công tác nghiên cứu, tham mưu dự báo chiến lược mặc dù đã được cải thiện và nâng cao chất lượng song vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác đối ngoại trong tình hình mới; cần được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa trước những chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực.

3. Nguyên nhân của thành công và tồn tại, hạn chế

(1) Nguyên nhân thành công

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, Việt Nam nằm trong khu vực phát triển rất năng động trong nhiều năm qua khi Châu Á - Thái Bình Dương chuyển từ chiến trường của Thế kỷ 20 thành thị trường và đối tác phát triển của Thế kỷ 21.

Thứ hai, vị trí địa - chiến lược của Việt Nam tạo cơ hội để Việt Nam có thể tranh thủ được quan tâm của các nước, đặc biệt là các nước lớn khi các nước này triển khai chiến lược đối với khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.

Thứ ba, xu hướng toàn cầu hóa và liên kết khu vực phù hợp cho việc triển khai chiến lược hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam.

Thứ tư, dịch chuyển quyền lực và thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước lớn đã làm tác động tới cục diện thế giới theo hướng gia tăng tính đa cực và vai trò của các cơ chế đa phương tạo điều kiện để Việt Nam thể hiện tốt hơn đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Thứ năm, ASEAN có vị trí, vai trò quan trọng ở khu vực, trở thành một trong những điểm tựa quan trọng để ta phát huy giá trị chiến lược, nâng cao vị thế, nhất là trong quan hệ với các nước lớn.

Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, trong bối cảnh tình hình biến động nhanh và khó lường nhưng ta đã rất kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ; luôn bám sát đường lối, các cương lĩnh của Đảng, chủ trương của Nhà nước; luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết.

Thứ hai,ta đã không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại cũng như cách làm để thích ứng với những chuyển biến nhanh, khó lường của tình hình thế giới, khu vực. Với tư duy đó, các cơ quan tham mưu đã rất nỗ lực nắm bắt những xu thế chính của thời đại,dự báo tình hình làm cơ sở hình thành nên định hướng đối ngoại cũng như giải pháp cho những tình huống/vấn đề cụ thể.

Thứ ba,ta đã nắm vững và vận dụng khôn khéo hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh”, “đối tác” và “đối tượng” theo tinh thần nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và Trung ương 8 khóa XI. Trong triển khai đã quán triệt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” để chủ động, linh hoạt, tranh thủ đúng đối tượng, đón bắt đúng thời cơ, nhận diện rõ thách thức.

Thứ tư, xử lý hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa đan xen lợi ích để đưa quan hệ đi vào chiều sâu với tránh không để bị lệ thuộc vào nước nào khi nước ta tham gia vào hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Thứ năm,ta phát huy được sức mạnh tổng hợp trong đối ngoại dưới sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước và sự đồng thuận của nhân dân. Trên cơ sở đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân đã bảo đảm các hoạt động đúng hướng, liên hoàn, tương tác qua lại phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc.

(2) Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất,tình hình thế giới và khu vực thời gian qua biến động mạnh, tương quan lực lượng thay đổi, các nước lớn điều chỉnh chiến lược, hợp tác và cạnh tranh đan xen phức tạp, trong đó cạnh tranh có xu hướng gia tăng.

Thứ hai, chủ nghĩa dân tộc gia tăng khiến các nước lớn tăng hành xử theo hướng chính trị cường quyền, các nước vừa và nhỏ thực dụng hơn trước. Do đó, hiệu quả và vai trò của các thể chế đa phương và luật pháp quốc tế tạm thời giảm.

Thứ ba, sự khác biệt về mặt thể chế chính trị, định hướng phát triển, nhìn nhận trong các vấn đề phát triển (mô hình, giá trị…) ảnh hưởng không thuận cho tăng cường lòng tin, thắt chặt quan hệ với một số đối tác.

Thứ tư, sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi. Ngoài ra, sự phát triển khoa học công nghệ và quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước cũng tiếp tục đặt ra những vấn đề mới phải nghiên cứu và xử lý hiệu quả.

Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, nhận thức về hội nhập, bao gồm cả trong Cộng đồng ASEAN, cơ chế sát sườn với Việt Nam còn hạn chế. Người dân và doanh nghiệp của Việt Nam chưa nắm bắt tốt, tận dụng đầy đủ những lợi ích và nghĩa vụ, cơ hội và thách thức mà hội nhập quốc tế, nhất là các hiệp định thương mại tự do cũng như Cộng đồng ASEAN mang lại.

Thứ hai, khâu phối hợp trong - ngoài và giữa các lực lượng liên quan đến đối ngoại của các ban, bộ, ngành, địa phương dù đã được nâng lên một bước nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu mới. Việc xây dựng đồng thuận nội bộ trong nhiều vấn đề đối ngoại hệ trọng, nhạy cảm khó khăn hơn trước.

Thứ ba, đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rõ ràng. Việt Nam có các chính sách, chiến lược cho những vấn đề cụ thể nhưng chưa có Chiến lược đối ngoại tổng thể hoặc Chiến lược đối với từng khu vực  sát sườn như Chiến lược khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Kết quả là, trong nhận thức, tư duy đối ngoại, bao gồm cả đối ngoại đa phương, chúng ta vẫn chưa tư duy thực sự mang tầm khu vựchay toàn cầu.

Thứ tư, quá trình quy hoạch chính sách đối ngoại của ta còn mang nặng tính hành chính, chưa tổ chức đủ mức hoạt động và có diễn đàn cho phản biện nội bộ về các chủ trương lớn về đối ngoại; do đó phần nào chưa tranh thủ được hết trí tuệ toàn dân tộc, trong đó có chuyên gia, học giả.

Trongcác nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nói trên có các nguyên nhân mang tính khách quan do nguồn lực của Việt Nam hạn chế, sự khác biệt trong lợi ích quốc gia giữa Việt Nam với các đối tác, cũng như mức độ quan tâm của đối tác đối với Việt Nam. Song cũng có những nguyên nhân chủ quan từ sự thiếu chủ động và vào cuộc thực sự của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong triển khai đối ngoại. Trong đó, yếu nhất vẫn là khâu đôn đốc triển khai các thỏa thuận, hiệp định, kết quả đã đạt được. Cơ chế như Ủy ban hỗn hợp, Ủy ban hợp tác song phương cũng cần phải rà soát lại, hợp lý hóa hơn nữa.

4. Bài học kinh nghiệm

Bên cạnh những bài học mang tính tổng quát, có thể rút ra một số bài học liên quan đến triển khai đối ngoại như sau:

Thứ nhất, bài học về đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, chỉ đạo và đặc biệt là sự tham gia trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong công tác đối ngoại.Điều này cũng phù hợp với xu hướng vai trò của cá nhân các nhà lãnh đạo ngày càng được thể hiện và đề cao tại nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Việc các đồng chí lãnh đạo tham gia trực tiếp đã tạo nên sự thống nhất nhận thức, điều phối hoạt động đối ngoại, và đặc biệt đã mở ra các dư địa quan hệ trong tình hình mới. Cần tận dụng hơn nữa vai trò của ngoại giao cấp cao/ngoại giao Nguyên thủ trong tình hình mới, nhất là khi hiện nay chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước đã tập trung. Chú trọng hơn đến thực chất, sáng tạo, linh hoạt hơn về lễ tân. Không quá câu nệ các quy định, tiền lệ về lễ tân, nhất là trong quan hệ với các nước láng giềng và các đối tác lớn. Tận dụng linh hoạt các hình thức trao đổi, tiếp xúc như điện đàm, gặp gỡ bên lề không chính thức. Xây dựng mối quan hệ cá nhân lãnh đạo của ta với lãnh đạo các đối tác chủ chốt.

Thứ hai, bài học về quan tâm và tăng cường công tác thể chế hóa và xây dựng chiến lược, chính sách để triển khai đường lối đối ngoại. Trong thời gian qua, ta đã thực hiện xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về tăng cường và nâng tầm đối ngoại đa phương, Đề án thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với đối tác, Đề án Biển Đông.v.v.. Qua đó, hướng triển khai cụ thể được xác định, việc thực hiện các quyết sách về đối ngoại đảm bảo tính chiến lược, đồng bộ,đồng thời đảm bảo sự linh hoạt chiến lược và các dư địa chính sách để ứng phó với những biến động bên ngoài.Quá trình phối kết hợp giữa các bộ, ban ngành, giữa trung ương và địa phương cũng được củng cố và tăng cường hơn trước.

Thứ ba, bài học về thống nhất quản lý trong triển khai các nhiệm vụ đối ngoại. Một trong những thành công thời gian qua là sự phối kết hợp giữa các bộ ngành, địa phương đã được chú trọng và thúc đẩy. Giữa các trụ cột đối ngoại, giữa các binh chủng đối ngoại, ngoại giao đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các cơ quan thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, từ Trung ương đến địa phương được thống nhất, kết hợp linh hoạt tạo nên sức mạnh tổng thể về đối ngoại, góp phần đảm bảo lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Một số cơ chế phối hợp đã được mở rộng và củng cố như Uỷ ban liên ngành về hội nhập quốc tế, cơ chế giao ban 3 Bộ Quốc phòng – Công an – Ngoại giao…

Thứ tư là bài học trong ứng xử với các nước lớn một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo, dùng quan hệ với nước lớn này để làm đòn bẩy thúc đẩy quan hệ với nước lớn khác.Trong ứng xử với các nước lớn trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng, cần: (i) tranh thủ khuôn khổ ASEAN nhiều hơn để giảm tính nhạy cảm và hiểu lầm chiến lược, nhất là đối với Trung Quốc; (ii) Hiểu và vận dụng phương châm “cân bằng động” một cách linh hoạt, sáng tạo hơn, nhất là trong xử lý quan hệ với Trung Quốc và Mỹ; (iii) Dám nghĩ, dám làm hơn, mạnh dạn hơn trong đổi mới tư duy để nắm bắt các cơ hội trong quan hệ với các nước lớn (như việcTổng Bí thư thăm chính thức Mỹ năm 2015 và ta sớm tiếp cận và xây dựng quan hệ với chính quyền Trump); (iv) Ngoại giao nước lớn và ngoại giao láng giềng là hai lĩnh vực liên quan mật thiết với nhau: việc có quan hệ tốt với Trung Quốc, Mỹ sẽ góp phần quan trọng ổn định quan hệ với các nước láng giềng Lào, Campuchia.

Thứ năm là bài học về phát triển nội lực và tận dụng ngày càng hiệu quả mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện để phục vụ cho lợi ích an ninh và phát triển của đất nước… Ta cần tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển. Về bên ngoài, thúc đẩy và hoàn thành đàm phán một số hiệp định FTA thế hệ mới, vừa mở rộng thị trường, thu hút đầu tư và cải cách thế chế góp phần phát triển bền vững. Trong nước, chú trọng và tăng cường công tác tham mưu chiến lược cho Đảng,Nhà nước và Chính phủ trên các vấn đề chiến lược, phát triển kinh tế, khoa học công nghệ; đặt người dân, doanh nghiệp, địa phương vào vị trí trung tâm trong nhiều hoạt động đối ngoại.

Thứ sáu là bài học về gắn kết chặt chẽ giữa ngoại giao đa phương và ngoại giao song phương để tôn giá trị chiến lược của ta, nhất là đối với các nước lớn. Thực chất các nước lớn nhận định giá trị của Việt Nam không chỉ nằm ở thế và lực nội tại của Việt Nam, quan hệ song phương giữa ta và đối tác, mà phần rất lớn ở mạng lưới đối tác và vai trò của ta tại các diễn đàn đa phương. Do đó, các điễn đàn ASEAN, APEC đóng vai trò rất quan trọng. Ta cần phấn đấu đóng vai trò thực sự nòng cốt, dẫn dắt, nhất là trong ASEAN, và các diễn đàn khu vực như APEC và tiểu khu vực như MRC, CLMV, Hợp tác Mê Công – Lan Thương và diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc.

Thứ bảy, bài học về đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ, phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước, chủ động, tích cực tranh thủ mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 

ThS Bùi Thanh Sơn

 



[1]Việt Nam và Lào đã hoàn thành việc tăng dày tôn tạo mốc giới và hiện đang triển khai thực hiện hiệu quả Nghị định thư và Hiệp định quy chế biên giới. Hai bên đẩy mạnh triển khai Thỏa thuận cấp Chính phủ về người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới, phối hợp xây dựng và hoàn thiện Quy hoạch phát triển hệ thống cửa khẩu biên giới Việt - Lào giai đoạn 2018-2025, tầm nhìn 2035. Việt nam và Cam-pu-chia hoàn thành phân giới cắm mốc 84% và đang xúc tiến hoàn tất văn kiện ghi nhận thực hiện hơn 84% khối lượng phân giới cắm mốc với Cam-pu-chia. Việt Nam và Trung Quốc triển khai xây dựng Đề án Quy hoạch hệ thống cửa khẩu biên giới với Trung Quốc giai đoạn 2016-2025 và tầm nhìn 2035.

[2] Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, “Những kết quả đạt được sau 30 năm đổi mới về hội nhập kinh tế quốc tế”, đăng tại

http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/r/o/nctd/nctd_chitiet?dDocName=MOFUCM098068&_afrLoop=55649780578729837#!%40%40%3F_afrLoop%3D55649780578729837%26dDocName%3DMOFUCM098068%26_adf.ctrl-state%3Dzhom17iq3_4

[3] Dự báo của các cơ quan nghiên cứu cho rằng CPTPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 4,7% đến năm 2035 và giúp 600.000 người thoát nghèo (ở mức chuẩn nghèo 5,5 USD/ngày).

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết