Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Dân chủ và thực trạng thực hiện dân chủ những năm qua

Ngày phát hành: 09/10/2019 Lượt xem 100645

 

I. Nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa

1. Những nhận thức đã rõ

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là nhận thức nhất quán của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua các kỳ đại hội cũng như hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đại hội IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định: “Để đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”[1]. Đại hội cũng chỉ rõ: “Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để xây dựng quyền làm chủ tập thể về kinh tế, Đảng yêu cầu phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải tạo chế độ sở hữu cá thể, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể bằng những phương pháp và bước đi thích hợp”[2].

Đại hội V của Đảng (năm 1982) một lần nữa khẳng định: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa…”[3]. Đại hội V còn nhấn mạnh: “Đường lối chung và đường lối kinh tế là một thể thống nhất hoàn chỉnh, trong đó có mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý là: Nắm vững chuyên chính vô sản, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa”[4]. Đảng chỉ rõ mục tiêu bao trùm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ bản chất của chế độ mới. Nhận thức này đã không ngừng được bổ sung, phát triển và làm sâu sắc thêm qua thời gian và mở rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tổng kết những quan điểm giá trị này qua các kỳ từ Đại hội VII đến Đại hội XII, đặc biệt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011)  Đảng dần hoàn thiện và tập trung vào chiến lược phát huy dân chủ trong đời sống xã hội với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đồng thời quyết tâm thực hiện dân chủ trong các hoạt động xã hội, lấy dân chủ hóa là mục tiêu và động lực để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, v.v.. là sự thể hiện những nỗ lực trong công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân trở thành lực lượng quản lý và điều hành xã hội cơ bản trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[5].

Có thể thấy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ ngày càng phát triển. Trải qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức của Đảng về dân chủ ngày càng đúng đắn hơn, phù hợp hơn với điều kiện cụ thể của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đảng khẳng định “nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò của dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, của việc phải từng bước xác lập và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từng bước làm rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng; giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền, yêu cầu và tác động của phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đến việc phát huy dân chủ ở nước ta[6].

Là một trong những đặc trưng thể hiện bản chất của chế độ, dân chủ xã hội chủ nghĩa được hiểu trên một số khía cạnh như sau:

Thứ nhất, xét về bản chất, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân quản lý và điều hành xã hội.

Chế độ đó do liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức làm nòng cốt, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước và xã hội thông qua nguyên tắc tập trung dân chủ, gắn dân chủ với kỷ cương, đảm bảo bằng luật phát trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật nhằm đảm bảo bản chất của giai cấp lãnh đạo xã hội. Bên cạnh đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là chế độ gắn kết và đảm bảo tính dân tộc kết hợp với tính nhân loại sâu sắc, đảm bảo mọi quyền lợi thực tiễn của mọi cá nhân gắn liền với nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng xã hội.

Thứ hai, dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là động lực và đặc trưng cơ bản nhất cấu thành nên mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam.

Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của cách mạng Việt Nam. Ở tầm lý luận, có thể nói dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, quy định sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa xã hội và vì vậy sẽ không có chủ nghĩa xã hội nếu chúng ta bỏ qua yếu tố cốt tử này. Dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là nội dung và tiêu chí hàng đầu cơ bản nhất để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phối hợp thực hiện giữa các cơ quan, đơn vị, các tổ chức cấu thành nên nó.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội khác nhau vận hành dưới sự giám sát chặt chẽ của mọi tầng lớp nhân dân nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định với tính cách là bản chất của chế độ, dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu phải trải qua quá trình cách mạng lâu dài, với nhiều khó khăn, thách thức. Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình với những bước đi và cách thức phù hợp với hiện thực xã hội. Trong quá trình đó có những nhiệm vụ trước mắt, đòi hỏi phải thực hiện ngay nhưng có những nhiệm vụ mang tầm chiến lược, yêu cầu sự kiên nhẫn, bền bỉ để đạt được những mục tiêu đã xác định, do vậy chúng ta cần thận trọng, kiên trì và có quyết tâm cao để thực hiện những nhiệm vụ mà sự nghiệp dân chủ hóa đời sống xã hội nói riêng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung đã và đang đặt ra cho chúng ta.

Trong hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, về phương diện thực hành dân chủ, nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội, đặc biệt là dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phát huy và ngày càng mở rộng. Đảng chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn (...). Khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội (...). Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế...”[7].

2. Những hạn chế, nhận thức chưa rõ và còn ý kiến khác nhau

- Trong so sánh với nhu cầu khách quan của sự phát triển đất nước, thực trạng dân chủ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, cả ở việc nhận thức, thực hành và phát huy dân chủ và cả ở việc giám sát và phản biện xã hội. Để đất nước có thể phát triển đúng với các tiềm năng trên cơ sở hội nhập ngày càng chủ động và tích cực hơn với thế giới, thì dân chủ phải được phát huy mạnh mẽ hơn nữa, trước hết là dân chủ ở trong Đảng và tiếp đó là dân chủ trong toàn bộ đời sống xã hội. Ngày nay, dân chủ cần được đối xử như một phương thức cơ bản, quan trọng nhất để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

- Thực hiện dân chủ còn nhiều khiếm khuyết hay hạn chế, tức dân chủ chưa thật sự và chưa đầy đủ, thì chắc chắn đó sẽ là một trở ngại đối với sự phát triển hoặc khiến sự phát triển rơi vào tình trạng kém bền vững. Đó còn là một sự lãng phí nguồn lực nội sinh, bởi không dân chủ hoặc thiếu dân chủ thì không thể mở rộng cơ hội để huy động một cách triệt để, hiệu quả các nguồn lực, trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào sự phát triển. Không chỉ vậy, sự hạn chế về dân chủ còn khiến sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là sức mạnh tinh thần và văn hóa khó tránh khỏi bị phân tán, lãng phí.

II. Thực trạng thực hiện dân chủ trong những năm qua

1. Những kết quả đạt được

1.1. Dân chủ trong Đảng

Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng, như công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra, v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:

Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học và của nhân dân.

Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.

Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực: Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.

Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ thống chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng.

Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội bộ Đảng. Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong các hoạt động của Đảng, mà cả trong quan hệ nội bộ đảng mà chủ yếu là quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực hành dân chủ trong quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong nội bộ đảng thể hiện: (1) Sau khi có nghị quyết Đại hội và các hội nghị Trung ương, các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh, gọn hơn trước; (2) Nhìn chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động, năng động cao hơn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết và đưa nghị quyết vào cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng công tác tổng kết thực tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để báo cáo lên cấp trên; (4) Cấp trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến đóng góp của cấp dưới; cấp dưới đã mạnh dạn đóng góp ý kiến phê bình, xây dựng với cấp trên; (5) Cùng với việc kiểm tra từ trên xuống, đã bắt đầu có sự kiểm tra từ dưới lên; (6) Khắc phục được một bước tình trạng cấp trên quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, dọa nạt cấp dưới, đồng thời khắc phục được phần nào tình trạng cấp dưới hối lộ, nịnh bợ cấp trên.

1.2. Dân chủ trong Nhà nước

Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước. Nói về những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Đảng cũng tức là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Nhà nước. Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước cũng có những nét đặc thù.

Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách, v.v.. Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới hành chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, v.v..  Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân.

Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số mặt, dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động, thích ứng và tổ chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở cửa, hội nhập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội có những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông qua một số lượng lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng ngày càng được nâng cao, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng cường một bước tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình trạng ôm đồm, cồng kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm bớt phiền hà trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan trọng là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương; đồng thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân.

1.3. Dân chủ trong xã hội

Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ trong xã hội có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì dân chủ trong Nhà nước và trong xã hội cũng chưa thể tốt được.

Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể chế hóa của Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong xã hội đã có những bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:

Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu không khí dân chủ hơn, cởi mở hơn trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương.

Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong xã hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội. Quyền công dân, quyền con người được khẳng định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, một trong thành tựu quan trọng của đổi mới là nền dân chủ đang được hình thành, đang đóng vai trò là động lực của sự phát triển xã hội.

2. Hạn chế

2.1. Dân chủ trong Đảng

- Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. Các thông tin chưa được cung cấp thường xuyên để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói nhiều, làm ít hoặc nói nhưng không làm.

- Công tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, còn một số biểu hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ còn bất hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ, chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ thực sự để tạo ra môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa các khâu trong công tác cán bộ để nhân dân được biết và có điều kiện theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện;

- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu. Vì vậy, phải xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên, vì không có cơ chế, chính sách cụ thể, đồng bộ thì nhân dân không thể giám sát, kiểm tra được;

- Trong Đảng vẫn còn tệ gia trưởng, độc đoán, dân chủ hình thức, đồng thời vô tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp ủy bàn bạc, nhưng chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Vì người đứng đầu không thật sự mở rộng dân chủ, không tôn trọng lắng nghe ý kiến trái với mình, thậm chí thành kiến, trù dập một cách khôn khéo, nên cấp dưới không dám nói thẳng, nói thật. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm.

Tóm lại, vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực so với thời kỳ trước đổi mới, không những thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong pháp luật của Nhà nước mà cả trong thực tế cuộc sống. Những chuyển biến đó thể hiện trong các hoạt động của Đảng và trong các quan hệ nội bộ đảng. Nhưng cũng phải thấy rằng, việc thực hành dân chủ trong Đảng vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Đảng cần phải phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm để thực hành dân chủ trong Đảng ngày càng tốt hơn, đồng thời nêu tấm gương tốt cho việc thực hành dân chủ trong Nhà nước và trong xã hội.

2.2. Dân chủ trong Nhà nước

- Dân chủ trong Nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là quyết định tự có của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao quyền. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho những con người cụ thể, mà ở con người cụ thể khi các dục vọng, thói quen nổi lên thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực càng lớn. Không thể khẳng định người được ủy quyền luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân ủy quyền. Vì vậy, phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước thì phải thực hành dân chủ rộng rãi. Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn còn sự lộng quyền, lạm quyền, vẫn còn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ô, lãng phí, v.v..

- Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.

2.3. Dân chủ trong xã hội

Thực hành dân chủ trong xã hội ở nước ta còn một số hạn chế sau đây:

Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Thứ hai, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.

Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước còn nhiều bất cập. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn xuất hiện ở không ít người. Trong xã hội còn không ít hiện tượng vừa chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ hay dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực đoan.

Thứ tư, chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả cao. Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.

Thứ năm, trong hơn 30 năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có nhiều đổi mới, Nhà nước đã cố gắng xây dựng, ban hành pháp luật và đưa pháp luật trở thành công cụ quan trọng trong quản lý đất nước, thực hành dân chủ trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ, không thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội.

Tóm lại, so với thời kỳ trước đổi mới thì hiện nay vấn đề dân chủ đã có nhiều tiến bộ nhưng một số vấn đề vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và lý giải một cách nghiêm túc, khoa học, như: vấn đề nhân dân làm chủ như thế nào? Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền như thế nào để tạo cơ sở cho dân chủ phát triển? hay như việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ còn chậm, không kịp thời, không rõ ràng, không đầy đủ, không nhất quán nên việc thực hành dân chủ trong xã hội còn nhiều khó khăn, hoặc rơi vào tình trạng dân chủ hình thức hoặc rơi vào tình trạng dân chủ quá trớn.

3. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ ở nước ta

Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về lý luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có cơ chế rõ ràng.

Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực, nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân chủ với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy được động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều vừa thiếu lại vừa yếu.

Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của chúng ta chưa tốt nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng chưa nêu được tấm gương về thực hành dân chủ.

Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai trò giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép xây dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội. Điều này ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội.

Ngoài ra, còn có nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng những nguyên nhân nói trên là những nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế dân chủ ở nước ta.

 

GS.TS Phạm Văn Đức

PGS.TS Bùi Nguyên Khánh

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.18.

[2]  Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.22.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.47.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.49.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.84-85.

[6]  Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới(1986-2006). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr.86.

[7]Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.166-167.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết