Thứ Sáu, ngày 29 tháng 03 năm 2024

Đảng lãnh đạo công cuộc xóa đói, giảm nghèo

Ngày phát hành: 31/12/2020 Lượt xem 9318

I. Về nhận thức, quan điểm 

1. Xóa đói, giảm nghèo là một mục tiêu trọng yếu, mang bản chất cách mạng vì dân của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình, ấn no”[1], nằm trong tổng thể mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa “Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh”. Ngay sau khi giành được độc lập (8-1945), Đất nước đã phải chịu hậu quả vô cùng khốc liệt của nạn đói năm 1945 do phát xít Nhật, thực dân Pháp và các thế lực phản động trong và ngoài nước gây ra, làm hơn hai triệu người chết. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 vấn đề cấp bách, trong đó cứu đói là một nhiệm vụ hàng đầu. Trong thời kỳ đặc biệt này, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi "chống đói cũng như chống ngoại xâm". Người đề nghị với Chính phủ phát động ngay một chiến dịch khẩn thiết kêu gọi "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!”, và mở cuộc lạc quyên cứu đói. Người viết thư động viên đồng bào cả nước nêu cao tinh thần "xẻ cơm nhường áo" để cứu dân nghèo; Người nói "Tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo". Nhờ có sự chỉ đạo rất sáng suốt, kịp thời, đầy nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ mà nạn đói đã từng bước được khắc phục.

 

 

Nhưng nền độc lập - hòa bình của đất nước chưa được bao lâu, thì cuối năm 1946, Đất nước lại một lần nữa phải bước vào cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trong giai đoạn cam go này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định Đảng và Chính phủ phải đồng thời lãnh đạo “kháng chiến và kiến quốc”. Người xác định diệt “giặc đói”, “giặc dốt” cũng cấp bách và quan trọng như diệt “giặc ngoại xâm”.

2. Sau khi giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, đất nước lại đứng trước những thách thức vô cùng to lớn: Hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược đã làm cho hàng chục triệu gia đình có con em bị hy sinh, thương tật; các cơ sở kinh tế - xã hội bị tàn phá nặng nề, nguồn lực của đất nước bị suy giảm nghiêm trọng; đất nước lại bị bao vây cấm vận trong hơn 10 năm; cùng với những sai lầm lớn trong nhận thức và thực tiễn phát triển theo mô hình chủ nghĩa xã hội với thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp kéo dài trong nhiều năm…, Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng vào cuối những năm 70 - đầu những năm 80 của thế kỷ trước; sản xuất bị đình đốn, tan rã; đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, có khoảng 60% số hộ gia đình rơi vào nghèo đói, cùng cực. Trong bối cảnh đó, tại Đại hội VI (1986), Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, với mục tiêu bao trùm là thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh công cuộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, đưa đất nước sớm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

3. Trong sự nghiệp đổi mới, xóa đói giảm nghèo trở thành một chủ trương lớn, xuyên suốt của Đảng qua nhiều nhiệm kỳ, với những nội dung và giải pháp thích hợp  trong từng giai đoạn, và cho đến hiện nay. Đại hội lần thứ VI Đảng đã đánh dấu một bước quan trọng trong đổi mới nhận thức về các vấn đề xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có nội dung quan trọng về đẩy mạnh xóa đói giàm nghèo. Lần đầu tiên Đảng đã đặt giải quyết các vấn đế xã hội lên tầm chính sách xã hội trong tương quan với chính sách phát triển kinh tế. Cương lĩnh 1991 của Đảng đã chỉ rõ: Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.

Các đại Hội VII, VIII, IX, X của Đảng tiếp tục đổi mới nhận thức về vấn đề xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó xác định xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ rất quan trọng, một cấu thành hữu cơ cúa hệ thống chính sách phát triển xã hội. Chỉ rõ hệ thống chính sách xã hội phải được hoạch định theo những quan điểm sau: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.

Cương lĩnh năm 2011 cùng với Nghị quyết Đại hội XI (năm 2011) tiếp tục làm rõ hơn nhận thức, quan điểm về các vấn đề xã hội và quyết các vấn đề xã hội, về xóa đói giửm nghèo. Trong đó nêu rõ: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi…Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: phải đẩy mạnh cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân, thực hiện có hiệu quả xóa đói giảm nghèo, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Khuyến khích nâng cao khả năng tự đảm bảo an sinh xã hội của người dân. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, đảm bảo mức sống tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin… Đồng thời, từ đại hội XI, XII, Đảng đã đề ra chủ trương phát triển nhanh - bền vững, trong đó vấn đề xóa đói giảm nghèo được đặt ở tầm cao hơn - xóa đói giảm nghèo bền vững trong tổng thể mục tiêu phát triển bền vững Quốc gia (mục tiêu Thiên niên kỷ) theo đề xuất của Liên Hợp Quốc.

4. Nhìn lại gần 35 năm đổi mới, nhận thức và quan điểm của Đảng về xóa đói - giảm nghèo ngày càng sâu rộng hơn, toàn diện hơn, thể hiện trên những phương diện chủ yếu sau :

- Chuyển từ quan điểm xóa đói - giảm nghèo mang nặng tính hành chính tập trung, quan liêu, bao cấp, bình quân chủ nghĩa trong thể chế phát triển cũ, sang quan điểm xóa đói giảm nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, nhiều thành phần, hội nhập quốc tế; từng bước tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế.

- Chuyển từ quan điểm xóa đói - giảm nghèo mang nặng tính hỗ trợ đời sống, tính bình quân, sang gắn với bình đẳng, công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Xóa đói giảm nghèo là một nội dung quan trọng trong các các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển; gắn với đào tạo nghề, giải quyết việc làm và tạo sinh kế bền vững.

- Gắn kết hữu cơ giữa hai phương diện (hai loại chính sách) xóa đói - giảm nghèo và khuyến khích làm giàu chính đáng theo pháp luật; theo phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”.

- Chuyển từ xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ chỉ của Nhà nước, sang kết hợp có hiệu quả vai trò chủ đạo của Nhà nước với vai trò của xã hội (các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, cộng đồng dân cư, các hộ gia đình và từng cá nhân…); phát huy cao năng lực nội sinh của từng người, từng gia đình, từng cộng đồng dân cư, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân”.

- Đặt nhiệm vụ xóa đỏi giảm nghèo trong tổng thể các chính sách xã hội, nhất là phát triển hệ thống an sinh xã hội bền vững, đảm bảo phúc lợi xã hội và các dịch vụ công cơ bản; gắn liền với phát triển sản xuất kinh doanh. Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

- Trong công cuộc xóa đói - giảm nghèo, cùng với quan tâm ở bình diện chung, đặc biệt quan tâm đối với các đối tượng yếu thế, các khu vực đồng bào dân tộc ít người, các vùng đặc biệt khó khăn, các đổi tượng ưu đãi xã hội (như những người có công, trẻ em, người tàn tật...).

- Quan niệm và tiêu chí về xóa đói giảm nghèo ngày càng được nâng cao, tiếp cận với chuẩn mực quốc tế: từ xóa đói giảm nghèo cùng cực, nghèo lương thực, nâng dần lên thành chuẩn nghèo thu nhập; rồi được nâng lên chuẩn nghèo theo tiếp cận đa chiều (tiếp cận chung của thế giới), trong đó đảm bảo mức sống tối thiểu về thu nhập và tính đến sự thiếu hụt về “các chiều” giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin… Đồng thời xác định giảm nghèo bền vững là một nội dung quan trọng của phát triển nhanh - bền vững tổng hợp cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường; gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

 

II. Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo

1. Với những nhận thức và quan điểm chỉ đạo như trên, Đảng đã lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa và thể chế hóa thành hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo phù hợp trong từng giai đoạn. Vấn đề xóa đói giảm nghèo được đưa vào trong nội dung của nhiều luật[2]. Đồng thời, vấn đề xóa đói, giảm nghèo theo cách tiếp cận từ các chương trình, chính sách đơn lẻ, từ năm 1998 đã được tích hợp lại thành “Chương trình Quốc gia xoá đói, giảm nghèo” thời kỳ 1998 - 2000, do Quốc hội thông qua. Cùng với đó, để đảm bảo công tác xóa đói, giảm nghèo phù hợp và hiệu quả hơn đối với các vùng đặc thù, nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người, Chính phủ đã phê duyệt các chương trình quan trọng[3]. Trọng tâm là phát triển hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, thúc đẩy sản xuất, nâng cao thu nhập cho các huyện nghèo, hộ nghèo và người nghèo (nơi có tỷ lệ hộ nghèo gấp 3,5 lần mức bình quân cả nước, với dân số khoảng trên 2,4 triệu người, trong đó 90% là dân tộc thiểu số); Chương trình hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; các Dự án nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả; cùng với nhiều cơ chế, chính sách đẩy mạnh giảm nghèo.

2. Chương trình Quốc gia xoá đói, giảm nghèo và các chương trình xóa đói giảm nghèo thành phần được tập trung vào giải quyết 4 nhiệm vụ trọng tâm: Một là, hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; xây dựng quy hoạch sản xuất, đời sống ở các vùng dân cư, bảo đảm cho đồng bào ổn định có đủ điều kiện sản xuất, cơ sở hạ tầng, định canh, định cư ổn định lâu dài, nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả, bền vững; hai là, giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở, nước sinh hoạt…, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, bảo đảm các yêu cầu cấp thiết về ăn, mặc, ở, chữa bệnh, học hành; ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, trước hết là mở mang đường giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế, thông tin liên lạc, truyền thông, tạo cơ sở cho kinh tế - xã hội phát triển, cải thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng đời sống nhân dân; bốn là, từng bước xây dựng các trung tâm cụm xã thành các tụ điểm kinh tế - văn hóa - xã hội, từ đó đưa ánh sáng văn minh đến các thôn, bản; nâng cao năng lực giảm nghèo, kích thích nền kinh tế phát triển làm nền tảng cho xóa đói, giảm nghèo bền vững.

Trên cơ sở những thành quả đạt được trong công tác xóa đói, giảm nghèo, nhất là xóa đói và giảm nghèo cùng cực trong giai đoạn 1986 - 2011, vấn đề xóa đói giảm nghèo được nâng lên tầm cao hơn - hướng tới giảm nghèo bền vững, do đó Quốc hội Việt Nam đã thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2012 - 2015. Cùng với đó, Quốc hội còn thông qua 15 Chương trình mục tiêu quốc gia khác đều có những nội dung liên quan và hỗ trợ cho công tác giảm nghèo bền vững[4]. Trong đó “Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2010 -2020, với mục tiêu “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chương trình này bao quát toàn bộ các lĩnh vực và gồm 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới[5], đã góp phần rất quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo bền vững ở nông thôn.

Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và 15 chương trình mục tiêu quốc gia khác trong giai đoạn 2012 - 2016, mặc dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, song việc triển khai nhiều chương trình mục tiêu quốc gia có nội dung liên quan, cũng bộc lộ những bất cập không nhỏ, như: tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc; ban hành nhiều chính sách còn trùng chéo, có khi mâu thuẫn nhau; nguồn lực bị phân tán…dẫn đến giảm hiệu lực, hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo. Chính vì vậy, sang giai đoạn 2016 - 2020 Chính phủ đã nghiên cứu tích hợp lại các chương trình mục tiêu quốc gia; và Quốc hội đã ra nghị quyết chỉ còn hai Chương trình mục tiêu quốc gia là: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trong đó vẫn có những chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh - bền vững cho các huyện nghèo nhất (64 huyện); và chính sách hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn, bản đặc biệt khó khăn… của các chương trình trước đây.

3. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới - phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước luôn nhất quán quan điểm phát triển những giá trị đặc trưng của dân tộc, đồng thời kết nối - hội nhập với các giá trị tốt đẹp chung của nhân loại. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược xóa đói - giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã từng bước tiếp cận với những chuẩn mực chung của quốc tế. Theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên Hợp Quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo". Đồng thời, Việt Nam đã đặt nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo bền vững trong tổng thể  "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo"[6], phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố[7]. Khi Liên Hợp Quốc đưa ra “Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến 2030” với phương châm "Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng phát triển của các thế hệ tương lai", tập trung gắn kết và cân bằng ba vấn đề lớn của sự bền vững, đó là kinh tế, xã hội và môi trường, trong một khung hành động với 5 yếu tố “P” gồm: Con người (People), Hành tinh (Planet), Thịnh vượng (Prosperity), Hòa bình (Peace) và Đối tác (Partnership); được cụ thể hóa thành 17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững[8]. Việt Nam đã hưởng ứng Chương trình này của Liên Hợp Quốc bằng việc Ban hành “Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững[9], với mục tiêu tổng quát là “Duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đối với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân chủ, công bằng, văn minh và bền vững”, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Trong Kế hoạch này nêu rõ 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030 bao gồm 115 mục tiêu cụ thể, tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu.

Đồng thời, Việt Nam đã trở thành một trong số những nước đi đầu ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương áp dụng cách tiếp cận nghèo đa chiều (từ năm 2016) phù hợp với xu thế chung của thế giới, song có tính đến đặc điểm của Việt Nam. Với nội dung dựa vào mức thu nhập tối thiểu và kết hợp với sự thiếu hụt về các lĩnh vực quan trọng như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, nước sạch, văn hóa - thông tin…Cách tiếp cận theo nghèo đa chiều đã thể hiện rõ xóa đói - giảm nghèo bền vững không chỉ xem xét về thu nhập, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm cho các hộ gia đình, mà còn tính tới đồng bộ các chiều khác về vật chất và tinh thần trong đời sống của nhân dân, trong tổng thể chiến lược phát triển bền vững của Đất nước, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường. Như vậy, Việt Nam đã có nhận thức ngày càng toàn diện và đưa ra những chủ trương, biện pháp thiết thực để xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo trên cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, tăng cường trợ giúp với đối tượng yếu thế; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Cách tiếp cận giảm nghèo bền vững, giảm nghèo đa chiều theo những giá trị chung của nhân loại; đồng thời thể hiện rõ những nội dung, đặc trưng nổi bật của Việt Nam, đã được cộng đồng quốc tế ủng hộ và đánh giá cao.

4. Để lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện, Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia cấp trung ương do một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; ở địa phương Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ở địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban[10]. Thủ tướng Chính phủ ban hành chức năng, nhiện vụ, quyền hạn, quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo.

Chương trình, mục tiêu xóa đói, giảm nghèo được đưa vào nghị quyết của đại hội đảng các cấp từ Trung ương xuống cơ sở; coi đây là một nhiệm vụ lãnh đạo trọng yếu của các cấp ủy đảng. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ và Ủy ban nhân các cấp có trách nhiệm cụ thể hóa, thể chế hóa các mục tiêu xóa đói giảm nghèo thành các cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp với điều kiện của từng vùng và từng đối tượng, để chỉ đạo tổ chức thực hiện; ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện. Trong quá trình thực hiện công cuộc xáo đói giảm nghèo, đã có những thay đổi quan trọng trong thể chế lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, chuyển từ phương thức chỉ đạo tập trung cao và “cứng” mọi mặt từ Trung ương xuống cơ sở, sang phương thức phân công, phân cấp rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của từng cấp; phát huy cao tính chủ động sáng tạo của các cấp địa phương, cơ sở. Đặc biệt, đã coi trọng và phát huy cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư ở cơ sở hình thành các phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, huy động các nguồn lực, tham gia thực hiện và giám sát, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các chính sách, chương trình dự án. Xác định rõ cơ chế tự chủ - tự quản, thực hiện dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết - Dân bàn - Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra, giám sát - Dân thụ hưởng” dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là một bước tiến sáng tạo theo đúng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dễ vạn lần không Dân cũng chịu, khó vạn lần Dân liệu cũng xong”, “đem tài dân, sức dân làm lợi cho dân”.

5. Trong  gần 35 năm qua, với đường lối, chủ trương, chính sách và các giải pháp đúng đắn, phù hợp, sự lãnh đạo - chỉ đạo thường xuyên của Đảng và nhà nước, sự đồng tâm, đồng sức của cả xã hội và nhân dân, kết hợp các nguồn lực ngày càng tăng của của Nhà nước với các nguồn lực xã hội, công tác xóa đói giảm giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, được thế giới ghi nhận và ca ngợi như một điển hình sáng. Có thể nêu khái quát như sau:

i) - Hàng triệu hộ, chục triệu người đã thoát nghèo đói. Tỷ lệ hộ nghèo (thu nhập) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 9,88% năm 2015; và nghèo theo chuẩn đa chiều còn 5,23% năm 2018. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm; Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo nhất (64 huyện) giảm từ hơn 50% năm 2010, xuống còn khoảng 28%, năm 2019; thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2018 tăng khoảng 1,4 lần so với cuối năm 2015, dự kiến đến cuối năm 2020 thu nhập hộ nghèo tăng 1,6 lần (vượt chỉ tiêu đề ra là 1,5 lần). Đến cuối năm 2020, đã có 20/64 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn đạt và 20/30 huyện thoát khỏi diện nghèo; Đến tháng 9/2019 đã có 52/291 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.

ii) - Chương trình xây dựng nông thôn mới sau hơn 9 năm thực hiện (2010 -2019) đã đạt được những kết quả quan trọng: Đến tháng 10/2019, cả nước đã có 4.665 xã (52,4%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, hoàn thành vượt 2,4% so với mục tiêu đề ra cho 10 năm (2010-2020); trong đó có 63 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; bình quân cả nước đạt 15,32 tiêu chí/xã; cả nước đã có 109 đơn vị cấp huyện của 41 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Chương trình xây dựng nông thôn mới thể hiện rõ “ý Đảng - lòng Dân”, bao quát toàn diện các nội dung phát triển nông thôn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường; từ xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế, các cơ sở văn hóa - thông tin…) đến phát triển sản xuất, kinh doanh, đến chăm lo nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đến bảo vệ môi trường sinh thái theo hướng phát triển bền vững, đã làm thay đổi và nâng cao đáng kể đời sống mọi mặt của cư dân nông thôn, trở thành những “làng quê đáng sống”, làm cơ sở để xóa đói - giảm nghèo bền vững.

iii) - Với nhận thức và thực tiễn biến đổi khí hậu tác động rộng lớn và sâu sắc đến nhiều mặt phát triển của Việt Nam, nhất là về sản xuất, sinh kế và tình trạng đói nghèo của nhiều vùng trong nước. Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo xây dựng đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp mang tính chiến lược cho trước mắt và lâu dài, trong đó có vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh, tạo sinh kế mới để ứng phó có hiệu quả với các tác động tiêu cực đến đời sống mọi mặt của cư dân, đảm bảo xóa đói giảm nghèo bền vững. Bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng.

iv) - Với sức mạnh tổng hợp, Việt Nam đã sớm hoàn thành 8 Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, trong đó có những mục tiêu đạt kết quả cao như: xóa đói giảm nghèo cùng cực, từng bước nâng cao chuẩn nghèo tiếp cận với chuẩn mực quốc tế; phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới, giảm tỷ số tử vong mẹ và tỷ suất tử vong trẻ em; thực hiện kiểm soát và ngăn chặn hiệu quả các bệnh lây nhiễm như sốt rét, bệnh lao, và gần đây là ngăn chặn thành công đại dịch  Covid – 19…, được cộng đồng quốc tế ửng hộ, ghi nhận và đánh giá cao.

v) - Trong cuộc chiến chống lại tác động tiêu cực của đại dịch Covid - 19, Đảng và Nhà nước Việt Nam cùng với việc thực hiện các chính sách, giải pháp bảo vệ, khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh; đã đặc biệt quan tâm đến bảo vệ và đảm bảo đời sống của nhân dân, nhất là những người nghèo, những đối tượng yếu thế. Cùng với huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của tất cả các chủ thể trong xã hội “chung tay chống đại dịch Covid”, Chính phủ Việt Nam đã dành nguồn kinh phí 62.000 tỷ đồng để hỗ trợ đảm bảo đời sống của các đối tượng bị giảm sâu thu nhập do  tác động trực tiếp của đại dịch . Đây là gói hỗ trợ an sinh xã hội chưa có tiền lệ của Việt Nam, mang đến cho khoảng 20 triệu người dân[11].

Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng công cuộc xóa đói, giảm nghèo vẫn còn những hạn chế, bất cập, thể hiện ở những mặt sau đây :

- Một số cấp ủy đảng, chính quyền và không ít cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp chưa nhân thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa chính trị - xã hội - nhân văn của công tác xóa đói, giảm nghèo, chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm đối với công tác này, vẫn coi đây chỉ như là chính sách hỗ trợ đời sống cho hộ nghèo, người nghèo, chưa coi đầu tư cho xóa đói, giàm nghèo cũng góp phần quan trọng tạo động lực cho phát triển bền vững đất nước.

- Việc ban hành các cơ chế, chính sách giảm nghèo và các chính sách liên quan vẫn còn không ít tình trạng chưa đồng bộ, trùng chéo, có khi nâu thuẫn, thiếu sự liên kết với nhau. Trong thiết kế một số chính sách chưa nhất quán quan điểm kết hợp hiệu quả giữa hỗ trợ không điều kiện với trợ giúp có điều kiện để nâng cao năng lực nội sinh và động lực phát triển phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng vùng và từng đối tượng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp vẫn còn tình trạng thiếu chủ động, sáng tạo; còn quan liêu, thiếu sâu sát, thiếu sự phối hợp liên ngành, hiệu lực hiệu quả chưa cao; còn để sảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, thất thoát, lãng phí, chất lượng thấp. Công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá ở không ít nơi không được thực hiện nghiêm túc, kịp thời; chưa phát huy thật hiệu quả vai trò tự chủ - tự quản của MTTQ, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong công tác xóa đói giảm nghèo và thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững.   

- Thực trạng nghèo đói, thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở vẫn ở mức tương đối cao và phân bố không đồng đều giữa các vùng miền. Tỷ lệ hộ nghèo cao tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, nơi mà điều kiện tự nhiên rất khó khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển so với các vùng khác trong cả nước[12]; tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm trên 55% tổng số hộ nghèo trong cả nước (2018). Chuẩn nghèo vẫn còn thấp so với mức trung bình của thế giới; ranh giới giữa hộ nghèo và cận nghèo còn rất mong manh. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững; tỷ lệ hộ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo mới có giảm nhưng còn tương đối cao (tương ứng trong giai đoạn 2016-2018 là 4,65%/năm và 23,53%/năm so với tổng số hộ thoát nghèo).

- Cách tiếp cận nghèo đa chiều mới được áp dụng từ năm 2016, vẫn còn có một số tiêu chí và cơ chế thực hiện chưa thật sát đúng với điều kiện của từng vùng, tùng đối tượng, đẫn đến có những sai lệch. Một số nơi lãnh đạo chưa chú trọng đúng mức đến nâng cao và phát huy nội lực của người dân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư, phát triển sinh kế, kết nối với các doanh nghiệp trong phát triển sản xuất hàng hóa, kinh doanh để làm nền tảng và động lực cho xóa đói giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới; vẫn còn nặng tư tưởng bao cấp từ phía nhà nước.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng tại các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn và kết nối với các khu vực trung tâm, vùng động lực phát triển còn rất hạn chế, ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiếp cận việc làm và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Dẫn đến chênh lệch giàu - nghèo, chênh lệch về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên[13].

- Sự liên kết, phối hợp giữa Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và các chương trình liên quan khác vẫn có những mặt trùng chéo, chưa hiệu quả; tạo việc làm và sinh kế ổn định cho người lao động ở nhiều nơi vẫn còn là thách thức không nhỏ. Nguồn lực đầu tư cho công tác xóa đói giàm nghèo cả từ phía Nhà nước và từ xã hội hóa không ngừng tăng lên, nhưng vẫn không đáp ứng nhu cầu thực tế, lại bị phân bố dàn chải, nhiều nơi hiệu quả không cao.

6. Từ những thành tựu và những hạn chế, bất cập trong công tác xóa đói giảm nghèo trong gần 35 năm qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :

(i) - Nhận thức đúng bản chất, vị trí, vai trò, thể chế công tác xóa đói, giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất nước theo định hướng XHCN là cơ sở quan trọng hàng đầu để xây dựng chủ chương, mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải pháp giảm nghèo hiệu quả, bền vững trong từng giai đoạn phát triển. Coi đầu tư cho giảm nghèo cũng là đầu tư cho phát triển bền vững, nhằm góp phần từng bước thực hiện thành công “Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững”.

ii) - Xây dựng hệ thống các cơ chế, chính sách giảm nghèo bền vững phải đảm bảo sự liên thông, kết nối, đồng bộ, phù hợp, hiệu quả giữa các lĩnh vực liên quan với nhau, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Các cơ chế, chính sách giảm nghèo cần phải có sự kết hợp hữu cơ giữa hỗ trợ không điều kiện (mang tính bao cấp, bình quân) với hỗ trợ có điều kiện, giữa hỗ trợ cho cá nhân, hộ gia đình với cho cộng đồng, phù hợp với từng vùng, từng loại đối tượng, nhằm từng bước nâng cao năng lực nội sinh, tính tự chủ - tự chịu trách nhiệm trong xóa đói giảm nghèo, vươn lên thoát nghèo. Từng bước giảm dần các chính sách hỗ trợ không điều kiện, khắc phục tư tưởng và tâm lý ỷ lại vào Nhà nước vào cộng đồng.

iii) - Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cần phải được thiết kế và thực hiện trong sự tương quan hữu cơ với tất cả các chương trình, dự án phát triển của đất nước và trên địa bản từng vùng, địa phương, để đảm bảo không có sự trùng chéo, trùng lắp và mâu thuẫn về cơ chế, chính sách và phân tán về nguồn lực; ngược lại có sự “cộng hưởng” với nhau để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chương trình, dự án nói chung và công tác xóa đói giảm nghèo nói riêng.

iv) - Cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo phải đảm sự thống nhất của Trung ương về những vấn đề nguyên tắc, những định hướng và mục tiêu chung, gắn với cơ chế phân bổ nguồn lực; đồng thời phải hình thành cơ chế phân định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình của từng ngành, từng cấp cấp, từng tổ chức, đơn vị, nhất là những người đứng đầu; có cơ chế để khuyền khích thúc đẩy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, các đơn vị và người lãnh đạo.

v) - Thể chế và cơ chế xóa đói, giảm nghèo phải có sự kết hợp phù hợp, hiệu quả giữa vai trò và nguồn lực nhà nước với vai trò và nguồn lực của xã hội; phải hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng tới từng bước nâng cao năng lực nội sinh, phát triển sinh kế ổn định, nâng cao tính tự chủ - tự quản giảm nghèo bền vững của từng người lao động, hộ gia đình, cộng đồng dân cư, trong sự liên kết hữu cơ với tất cả các chủ thể khác, nhất là các doanh nghiệp và các loại hình hợp tác xã…phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng vùng, từng đối tượng; nhất là đối với các vùng đặc biệt khó khăn, trình độ phát triển còn thấp, vùng dân tộc ít người.  

 

III. Về định hướng công tác xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn mới

1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hơn quan điểm giàm nghèo bền vững là một nội dung trọng yếu của Chiến lược và mô hình phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Giảm nghèo phải được chuyền dần từ mục tiêu hỗ trợ nâng cao thu nhập, đời sống (mức sống tối thiểu) là chủ yếu, sang đẩy mạnh hỗ trợ các điều kiện nâng cao năng lực nội sinh của mỗi người lao động, hộ gia đình, cộng đồng dân cư đề giảm và thoát nghèo bền vững tổng hợp cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Phấn đấu đến năm 2025 xoá bỏ hoàn toàn nghèo đói cùng cực cho tất cả mọi người ở mọi nơi, không còn ai có mức sống dưới 1,9 USD/ một ngày theo sức mua tương đương (PPP). Để giảm nghèo bền vững sẽ trở thành một động lực phát triển ngày càng mạnh hơn trong giai đoạn mới.

2. Theo quan điểm định hướng trên, Chương trình quốc gia giảm nghèo bền vững (với các nhiệm vụ và mục tiêu) sẽ phải được xem xét, xây dựng trong tổng thể Chiến lược và Thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới (tăng trưởng toàn diện, đồng bộ, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, “không để ai bị bỏ lại phía sau”; trong sự gắn kết hữu cơ với các Chương trình mục tiêu quốc gia khác (nhất là với Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới, với xây dựng hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng tăng về độ bao phủ, ngày càng cao hơn về chế độ), có sự phân định rõ hơn nhiệm vụ, mục tiêu và cơ chế phối hợp giữa các Chương trình, khắc phục tình trạng cụ bộ, chia cắt. Đồng thời, các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững phải được kết cấu là một phần nội dung không thể thiếu trong các chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở cấp quốc gia, cũng như cấp ngành, địa phương, khu vực.

3. Nhất quán với cách tiếp cận giảm nghèo đa chiều. Song, cần tiếp tục làm sâu sắc hơn cả về lý luận và thực tiễn về giảm nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện cấu trúc các tiêu chí, các chuẩn nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển bền vững; làm rõ hơn vai trò của từng “chiều” trong giảm nghèo bền vững của Việt Nam trong giai đoạn mới; trên cơ sở đó để xác định các mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của từng vùng, từng đối tượng trong mỗi giai đoạn phát triển.

4. Trên cơ sở quan điểm giảm nghèo bền vững và cách tiếp cận giảm nghèo đa chiều, coi giảm nghèo hiệu quả là một động lực phát triển, phải triển khai rà soát tổng thể hệ thống các chính sách trực tiếp, gián tiếp và liên quan đến giảm nghèo bền vững[14] (kể cả các chính sách hỗ trợ mang tính bao cấp không điều kiện, các chính sách hỗ trợ có điều kiện và các chính sách mang tính đầu tư phát triển…), phân tích sâu sắc hơn những mặt tích cực và những mặt hạn chế, bất cập của hệ thống các chính sách này; trên cơ sở đó hình thành cách tiếp cận mới về xây dựng hệ thống các chính sách giảm nghèo theo quan điểm phát triển bển vững, nhằm thúc đẩy nâng cao năng lực nội sinh trong giảm nghèo của tất cả các chủ thể. Cấn rất chú trọng hoàn thiện các chính sách tạo sinh kế bền vững và việc làm ổn định. Cần đặc biệt quan tâm cụ thể hóa hệ thống chính sách giảm nghèo bền vững (các chiều) phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng trình độ phát triển và từng loại đối tượng nghèo trong từng giai đoạn.

5. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, xóa đói giảm nghèo bền vững, luôn gắn liền với thúc đẩy phát triển sản xuất hành hóa, tham gia vào các chuỗi sản xuất hàng hóa bền vững. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển hàng hóa phải Nhà nước phải chỉ đạo tổ chức thực hiện đồng bộ, phù hợp một loạt các chính sách, giải pháp liên quan phù hợp với từng vùng, từng đối tượng, như: đào tạo và nâng cao trình độ nghề nghiệp, giải quyết vấn đề đất sản xuất, hình thành các chuỗi liên kết sản xuất kinh doanh, liên kết cung ứng đầu vào - đẩu ra, kết nối thị trường, ứng dụng khoa học - công nghệ để nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng của sản phẩm hành hóa.

6. Giảm nghèo bền vững trong giai đoạn mới đòi hởi phải chuyển dần từ bình diện rộng, sang chiều sâu: xây dựng và cụ thể hóa đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp và tập trung các nguồn lực đề giảm nghèo nhanh hơn tại các vùng đặc biệt khó khăn, khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người; phải thiết kế các cơ chế, chính sách, giải pháp giảm nghèo trong tổng thể cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng tại các vùng này, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của từng dân tộc; thậm chí cần phải cụ thể và phù hợp với từng huyện, từng xã, thôn, bản, hộ gia đình. Trong đó cần có những cơ chế, chính sách phù hợp về tạo việc làm và đảm bảo an sinh xã hội đối với lực lượng lao động ở khu vực phi chính thức. Từng bước nâng cao năng lực nội sinh phát triển để hạn chế tái nghèo, đảm bảo thoát nghèo bền vững, vươn lên khá giả.

7. Việt Nam là một trong số nước bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhất là vùng đồng bằng Sông cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh ven biển, và những vùng chịu tác động biển đổi khí hậu cực đoan (lũ, khô hạn, bão tố…). Đây là những vùng điều kiện sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng, môi trường sẽ bị tàn phá nặng nề; đời sống nhân dân đứng trước nhiều nguy cơ bị rơi vào tình trạng đói nghèo, tái nghèo. Vì vậy, phải ban hành các cơ chế, chính sách, giải pháp công trình và phi công trình, đổi mới cơ cấu sản xuất, đảm bảo sinh kế ổn định, bền vững, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

8. Để giảm tác động tiêu cực của đại dịch cúm Covid - 19 đối với đời sống mọi mặt của nhân dân, một mặt, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các gói hỗ trợ an sinh xã hội cho khoảng 20 triệu người dân (trong đó có hơn 5 triệu người mất việc làm, tính đến cuối tháng 4 - 2020), và gói tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp cho các hộ nghèo; đồng thời thực hiện chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế chính sách để “mở cửa trở lại” và khôi phục các hoạt động sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp giữ lao động…nhằn đảm bảo đời sống cần thiết cho người lao động bị tác động bởi dịch.

9. Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực cho thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đồng thời hoàn thiện có chế, chính sách để huy động các nguồn lực từ xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp, để thực hiện các mục tiêu giảm nghèo bền vững. Tập trung cao đầu tư cho các vùng đặc biệt khó khăn để từng bước thu hẹp khoảng cách giầu nghèo. Vấn đề quan trọng là phải hoàn thiện cơ chế huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (cơ chế phân bổ, sử dụng, kiểm tra, đánh giá…), tránh để xấy ra thất thoát, tiêu cực, lãng phí; phải xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

10. Phải hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế quản lý - chỉ đạo thực hiện công tác giảm nghèo bề vững, trong đó có sự phân công, phân cấp quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình rõ ràng giữa các cấp, các ngành; đồng thời ban hành rõ cơ chế phối hợp liên ngành mang tính pháp lý; phân định rõ những vấn đề quản lý phải đảm bảo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên, những vấn đề mà cấp dưới được trao (đòi hỏi phải có) quyền tự chủ - tự chịu trách nhiệm. Điều rất quan trọng là tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ - tự quản của cộng đồng dân cư, thực hành tốt dân chủ cơ sở trong công tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh, theo nguyên tắc “Dân biết - Dân bàn - Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra - Dân thụ hưởng”.  

11. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đối với công tác xóa đói - giảm nghèo. Trước hết, các cấp ủy phải quán triệt sâu sắc yêu cầu, tính chất, nội dung của công tác giảm nghèo bền vững theo tiếp cận đa chiều trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó lãnh đạo cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, mục tiêu, tiêu chí giảm nghèo bền vững của Trung ương phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình; lãnh đạo Chính quyền đưa vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng và triển khai thực hiện các giải pháp xóa đói giảm nghèo hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và các đối tượng cụ thể.  

Đồng thời, phải hoàn thiện thể chế, cơ chế để phát huy có hiệu quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp và tất cả các chủ thể khác, trong việc huy động các nguồn lực; tham gia thực hiện, giám sát, kiểm tra, đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo bền vững.

 

                                                  PGS.TS Trần Quốc Toản

Ủy viên Hội đồng Lý luận TW

 

 



           [1] Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-1960)

          [2] Như : Luật đầu tư, Luật Đất đai, Luật giáo dục, Luật giáo dục nghề nghiệp, Luật Y tế, Luật lao động, Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, các Luật về văn hóa, thông tin…

       [3] Như : Chương trình 135/1998/QĐ-TTg về “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số miền núi”; Chương trình 134/2004/QĐ-TTg về “Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn”; Chương trình 134/2004/QĐ-TTg về “Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn”; Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với 61 huyện nghèo”…

         [4] 16 Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 - 2015 gồm: 1- Giảm nghèo bền vững; 2- Việc làm và dạy nghề; 3- Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; 4- Y tế; 5- Dân số và Kế hoạch hóa gia đình; 6- Vệ sinh an toàn thực phẩm; 7- Văn hóa; 8- Giáo dục và đào tạo; 9- Phòng, chống ma túy; 10- Phòng, chống tội phạm; 11- Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; 12- Ứng phó với biến đổi khí hậu; 13- Xây dựng nông thôn mới; 14- Phòng, chống HIV/AIDS; 15- Đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; 16- Khắc phục và cải thiện ô nhiễm môi trường.

       [5] Trong 19 tiêu chí, nhóm Quy hoạch có 1 tiêu chí (1- Quy hoạch); nhóm Hạ tầng kinh tế - xã hội có 8 tiêu chí (2- Giao thông; 3- Thủy lợi; 4- Điện; 5- Trường học; 6- Cơ sở vật chất văn hóa; 7- Cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn; 8- Thông tin và truyền thông; 9- Nhà ở dân cư); nhóm Kinh tế và tổ chức sản xuất có 4 tiêu chí (10- Thu nhập; 11- Hộ nghèo; 12- Lao động có việc làm; 13- Tổ chức sản xuất); nhóm Văn hóa - Xã hội - Môi trường có 6 tiêu chí (14- Giáo dục và Đào tạo; 15- Y tế; 16- Văn hóa; 17- Môi trường và an toàn thực phẩm; 18- Hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật; 19- Quốc phòng và an ninh).

        [6] Được Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Ngày 21 tháng 5 năm 2002

        [7] Chương trình phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc giai đoạn 2001 - 2015 gồm 8 mục tiêu cụ thể gồm:1/xóa cực nghèo và đói; 2/ Đạt phổ cập giáo dục tiểu học; 3/ Thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao quyền của phụ nữ; 4/ Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; 5/ Nâng cao sức khỏe cho bà mẹ; 6/ Chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; 7/ Đảm bảo sự bền vững về môi trường; 8/ Phát triển mối quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển.

        [8] Chương trình nghị sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc trong 15 năm tới”(2016 - 2030) được khóa họp Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 70 (ngày 25-9-2015) thông qua. Chương trình gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG) với 169 chỉ tiêu cụ thể như về : kết thúc đói nghèo, cải thiện sức khỏe và giáo dục, bình đẳng giới, trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái, làm cho các thành phố bền vững hơn, chống biến đổi khí hậu, bảo vệ đại dương và rừng với lộ trình thực hiện tới năm 2030. Cụ thể 17 mục tiêu phát triển bền vững gồm: 1/về xóa nghèo; 2/ về xóa đói; 3/ về đảm bảo cuộc sống khỏe mạnh và nâng cao phúc lợi; 4/ về đảm bảo giáo dục chất lượng; 5/ về đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái; 6/ về đảm bảo việc tiếp cận nguồn nước sạch và cải thiện các điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người; 7/ về đảm bảo việc tiếp cận năng lượng với giá cả hợp lý, tin cậy; 8/ về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo việc làm và công việc tốt cho tất cả mọi người; 9/ về xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc, đẩy mạnh công nghiệp hóa và bền vững, khuyến khích đổi mới; 10/ về giảm bất bình đẳng trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia; 11/ về các thành phố trở nên an toàn, vững chắc và bền vững; 12/ về hướng tới các mô hình tiêu dùng và sản xuất bền vững; 13/ về ứng phó với biến đổi khí hậu và các tác động của nó; 14/ về bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và các nguồn tài nguyên biển; 15/ về quản lý tài nguyên rừng bền vững, chống sa mạc hóa, chống xói mòn đất và mất đa dạng sinh học; 16/ về thúc đẩy xã hội hòa bình; 17/ về việc đem lại sức sống mới cho quan hệ đối tác toàn cầu để phát triển bền vững.    

          [9]  Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017

          [10] Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia cấp trung ương do một Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tổng hợp 2 Chương trình; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Ủy ban Dân tộc và các bộ, ngành có liên quan là thành viên Ban Chỉ đạo. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ở địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Trưởng ban. Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tổng hợp 2 Chương trình; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan chủ trì Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc và các sở, ngành có liên quan là thành viên Ban Chỉ đạo.

 

           [11] Các đối tượng được thụ hưởng tối đa trong vòng 3 tháng ( tháng 4-6 năm 2019), gồm : Người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương; hộ kinh doanh cá thể có doanh thu dưới 100 triệu đồng, bị tạm ngừng kinh doanh; Người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; Người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị mất việc làm; người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc đối với người lao động…

          [12] Tính đến cuối năm 2018, cả nước vẫn còn hơn 1,3 triệu hộ nghèo và trên 1,2 triệu hộ cận nghèo; nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%, như các huyện Mèo Vạc (50,44%) và Đồng Văn (54,56%) thuộc tỉnh Hà Giang; các huyện Trạm Tấu (52,85%) và Mù Căng Chải (51,66%) thuộc tỉnh Yên Bái; các huyện Điện Biên Đông (55,48%), Mường Nhé (66,73%), Tủa Chùa (53,01%) và Nậm Pồ (60,12%) thuộc tỉnh Điện Biên; huyện Kỳ Sơn (50,90%) thuộc tỉnh Nghệ An; huyện Tây Trà (64,15%) thuôc tỉnh Quảng Ngãi...

         [13] Sự phân hóa giầu nghèo trong các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng qua số liệu về chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 (20% dân số giầu nhất) và nhóm 1 (20% dân số nghèo nhất) năm 2014 là 9,7 lần tăng lên 10 lần vào năm 2018. Hệ số GINI (theo thu nhập) của Việt Nam trong giai đoạn 2014-2018 ở mức 0,4 đây là mức bất bình đẳng trung bình so với các nước trên thế giới

        [14] Hiên nay có gần 120 chính sách liên quan tới đầu tư, hỗ trợ phát triển KT-XH cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nhưng không ít trong số đó còn chồng chéo, phân tán, thiếu tính hệ thống.

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết