Thứ Sáu, ngày 26 tháng 04 năm 2024

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta

Ngày phát hành: 08/06/2021 Lượt xem 3701

 

 

Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những tổng kết sâu sắc về sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng và thành tựu phát triển đất nước trong 35 năm đổi mới vừa qua; trong đó, có đánh giá hết sức quan trọng là “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới...Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường... Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ”. Trong bài viết này, chúng tôi muốn góp phần cung cấp những thông tin, luận cứ để hiểu đúng đắn, đầy đủ tổng kết sâu sắc, quan trọng hết sức cô đọng này.

 

1. Công cuộc đổi mới dược thực hiện ở đất nước ta 35 năm qua đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay, bắt đầu từ những đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở cho những đổi mới trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày nay, đổi mới được tiến hành đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng đầu tiên, đổi mới được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, từ việc xóa bỏ những nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, đối lập, phủ nhận kinh tế thị trường, cản trở sự phát triển đã tồn tại kéo dài nhiều năm, đưa nước ta vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng những năm 80 của thế kỷ trước. Không chỉ ở nước ta, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cũng là nguyên nhân sâu xa đưa Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước kia rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đi đến sụp đổ. Điều này lại có nguyên nhân bắt nguồn từ những sai lầm trong nhận thức lý luận cho rằng kinh tế thị trường là đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư bản, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa, và cho rằng chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội cao hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản, do đó, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản hay bỏ qua chủ nghĩa tư bản thì phải xóa bỏ hay bỏ qua kinh tế thị trường để xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp; kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp là cao hơn, ưu việt hơn kinh tế thị trường, mới là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Song, chính đây là nhận thức, quan điểm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, khi con người vượt qua giai đoạn săn bắt và hái lượm để sinh tồn, bước vào giai đoạn trồng trọt và chăn nuôi, tức là có sản xuất, thì có hai động lực để phát triển, đó là chế độ tư hữu và phân công lao động. Khi có tư hữu và có phân công lao động thì nảy sinh quan hệ trao đổi, sản phẩm trở thành hàng hóa, ra đời sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, trong các xã hội mà phần đông người lao động còn bị lệ thuộc về thân thể vào các ông chủ, các chủ nô hay chúa phong kiến, chưa được tự do về thân thể, chưa được quyền bán sức lao động của mình, thì kinh tế hàng hóa chưa có điều kiện phát triển mạnh, kinh tế tự cấp tự túc còn chiếm tỷ trọng lớn. Tư bản ra đời trong lòng xã hội phong kiến, khi có những người tự do bán sức lao động cho người có tiền mua về để làm việc cho mình, sản xuất kinh doanh hàng hóa, làm giàu. Đây là kiểu quan hệ sản xuất tiến bộ hơn do đó thúc đẩy sự tan rã của quan hệ “phát canh, thu tô” phong kiến đã lỗi thời. Ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hóa, tư bản thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển; sản xuất và trao đổi hàng hóa trở thành phổ biến trong xã hội, làm hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, mỗi người sản xuất kinh doanh được tự quyết định sản xuất kinh doanh cái gì, bằng cách nào với chi phí riêng của mình, nhưng khi đưa hàng hóa ra thị trường, giá cả hàng hóa lại do quan hệ cạnh tran cung – cầu trên thị trường quyết định, làm cho người sản xuất kinh doanh có thể có lãi nhiều hay lãi ít, thậm chí thua lỗ, không bù đắp được chi phí đã bỏ ra, có thể trở nên giàu có hoặc bị phá sản. Điều này đưa đến những hệ quả rất quan trọng: (1) Người sản xuất kinh doanh phải điều chỉnh hoạt động của mình theo các tín hiệu của thị trường, thị trường trở thành yếu tố điều tiết các hoạt động kinh tế của xã hội một cách tự động, nhạy bén, linh hoạt và (2) Cơ chế này tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy người sản xuất kinh doanh phải năng động, sáng tạo, không ngừng vươn lên, không ngừng đổi mới để nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, do đó, một cách khách quan, thúc đẩy xã hội phát triển. Đây là vai trò tích cực, là sứ mệnh lịch sử của kinh tế thị trường. Từ kinh tế tự nhiên, sản xuất tự cấp tự túc phát triển thành sản xuất hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa trở thành kinh tế thị trường là những quá trình phát triển khách quan, tất yếu, theo hướng tiến bộ của xã hội loài người, là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Tư bản là một kiểu quan hệ sản xuất, là quan hệ giữa những người bán sức lao động của mình, đi làm thuê và những người có tiền, mua sức lao động sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để làm giàu. Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội mà ở đó quan hệ sản xuất tư bản là quan hệ phổ biến, chi phối trong xã hội. Sự ra đời, phát triển của tư bản, của chế độ tư bản là một tất yếu khách quan trong lịch sử phát triển của nhân loại, là một tiến bộ xã hội so với các xã hội trước chế độ tư bản; vai trò tích cực của nó là tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển. Tư bản ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hóa, lấy quan hệ hàng hóa - tiền tệ lam cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình; đồng thời, thúc đẩy quan hệ sản xuất hàng hóa phát triển, trở thành kinh tế thị trường; nhưng tư bản, những quan hệ sản xuất của tư bản và các quan hệ của sản xuất hàng hóa, của kinh tế thị trường không phải là một. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở chế độ tư hữu và phân công lao động xã hội; tư bản ra đời trên cơ sở có những người cần bán sức lao động và những người có tiền cần mua sức lao động để sản xuất kinh doanh, làm giàu. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ là quan hệ giữa những người sản xuất độc lập, bình đẳng. Tư bản là quan hệ không bình đẳng giữa người bán sức lao động và người đã bỏ tiền ra mua anh ta, giữa người làm thuê và người chủ của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, không thể đồng nhất, mặc nhiên cho rằng kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất tư bản chủ nghĩa là yếu tố vốn có, bản chất của kinh tế thị trường. Sự phát triển của kinh tế thị trường ở các nước tư bản trong hơn 300 năm qua là minh chứng cho thấy rõ điều này.

Kinh tế thị trường ở các nước tư bản đương nhiên là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, bởi ở đây, tư bản là lực lượng chi phối, thống trị. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển hơn 300 năm qua của nền kinh tế thị trường tư bản, nhiều thay đổi đã diễn ra, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau, vẫn là kinh tế thị trường những tính chất tư bản chủ nghĩa của nó đã có những thay đổi. Nền kinh tế thị trường ban đầu là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, rất ít có sự can thiệp của nhà nước. Nền kinh tế này, một mặt, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế; nhưng mặt khác, liên tục gây ra các cuộc khủng hoảng chu kỳ, sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc trong xã hội, tạo ra những xung đột xã hội và dẫn tới ra đời các tổ chức độc quyền, cản trở sự phát triển. Những điều này đòi hỏi phải có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực này, duy trì sự ổn định để phát triển. Sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 trong thế giới tư bản, học thuyết kinh tế thị trường cần phải có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước được thừa nhận, có ảnh hưởng và được thực hiện rộng rãi. Nền kinh tế ở tất cả các nước tư bản phát triển cho đến nay đều là những nền kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước. Do nhà nước ở các nước này vẫn do các tập đoàn tư bản chi phối, bảo vệ lợi ích của tư bản, nên tuy có làm giảm được tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng, phân hóa, xung đột xã hội, tạo môi trường cho kinh tế tiếp tục phát triển, nhưng không thể ngăn ngừa, khắc phục triệt để được những hiện tượng này mà những hiện tượng này vẫn diễn ra ở những hình thức khác nhau, mức độ khác nhau.

Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là ở các nước tư bản phát triển, còn xuất hiện nhiều hiện tượng mới có tác động tới tính chất tư bản chủ nghĩa của kinh tế thị trường. Đó là sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, phổ biến của các công ty cổ phần. Các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đầu tư, hoạt động ở nhiều nước, trên quy mô toàn cầu, công ty cổ phẩn trở thành hình thức tổ chức phù hợp, đáp ứng được yêu cầu. Trong các công ty cổ phẩn, ngoài các thành viên sáng lập, một số thành viên nắm giữ số cổ phần lớn, nắm vai trò quản lý công ty, còn có đông đảo cổ đông phân tán, trong đó có cả những người lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, khi xuất hiện những công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới, Các Mác đã đánh giá đây là bước tiến, một sự phủ định đối với tư bản tư nhân, dù rằng vẫn trong khuôn khổ chế độ tư bản, chưa làm thay đổi được bản chất tư bản của các quan hệ kinh tế. Thứ hai là, ở các nước tư bản phát triển, trong bối cảnh trình độ dân trí, nhận thức chính trị, xã hội của nhân dân ngày càng cao, các đảng chính trị lớn, mặc dù vẫn bị chi phối bởi tầng lớp giàu có, bởi các tập đoàn tư bản, nhưng rất cần phải có được sự ủng hộ của nhân dân trong các cuộc bầu cử để trở thành đảng cầm quyền, do đó, phải có sự quan tâm nhất định đến nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Nhà nước ở các nước tư bản phát triển, theo đó, cũng ngày càng quan tâm, chú ý nhiều hơn đến lĩnh vực xã hội, tới việc làm, tiền lương tối thiệu, điều kiện làm việc của người lao động, tới chăm sóc sức khỏe nhân dân, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, những người yếu thế, có hoàn cảnh khó khăn... Tùy theo mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường, nội dung và cách thức can thiệp của nhà nước mà hình thành nên những nền kinh tế thị trường khác nhau (hay mô hình khác nhau của kinh tế thị trường) trong các nước tư bản phát triển, như: kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường có giới hạn (mô hình kinh tế thị trường của Mỹ, Anh); kinh tế thị trường xã hội, nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, tạo công bằng xã hội (mô hình kinh tế thị trường Đức); kinh tế thị trường phúc lợi, nhà nước quan tâm xây dựng, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội cho người lao động (mô hình kinh tế thị trường ở các nước Bắc Âu); kinh tế thị trường nhà nước phát triển, nhấn  mạnh vai trò kiến tạo, thúc đẩy phát triển của nhà nước (mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc). Đã có nhiều phân tích, đánh giá, có những ý kiến khác nhau về các mô hình kinh tế thị trường này, nhưng đều cho rằng đó là những điều chỉnh, thích ứng của nhà nước tư bản, của chế độ tư bản để tồn tại, phát triển trong bối cảnh mới của thời đại, dù chưa làm thay đổi được bản chất của xã hội tư bản, nhưng là những xu hướng tiến bộ. Có phân tích cho rằng trong các xu hướng tiến bộ này có mầm mống của các nhân tố xã hội chủ nghĩa đã hình thành trong lòng xã hội tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội thật sự là xu hướng chung của thời đại.

Từ thực tiễn diễn ra trên thế giới và những phân tích nêu trên, có cơ sở khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế thị trường mới sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, phù hợp trong thời đại ngày nay.

 

 

2. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng được thực hiện 35 năm qua và cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào những thành tựu đạt được của đất nước. Tuy nhiên, không phải ngay khi thực hiện đường lối đổi mới, ở Đại hội VI của Đảng (1986), Đảng đã có nhận thức ngay về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà phải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX (2001), Văn kiện Đại hội mới khẳng định nền kinh tế mà nước ta xây dựng, phát triển là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa. Từ Đại hội IX của Đảng đến nay, nhận thức, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện rõ và đầy đủ hơn, cả về cơ cấu và cơ chế vận hành, cả ở các cấp vĩ mô và vi mô, quản lý nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp, để phát huy được mặt tích cực và ngăn ngừa, khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường tốt hơn những gì mà các nước tư bản đã làm, để đất nước ta phát triển nhanh bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

 Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở nước ta được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: toàn dân (nhà nước, tập thể, tư nhân và nước ngoài) nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quyền sở hữu, quyền tài sản, thu nhập hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước) đều động theo cơ chế thị trường, bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh với nhau theo pháp luật. Kinh tế nhà nước (bao gồm các nguồn lực kinh tế của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước) được xác định có vai trò chủ đạo với ý nghĩa là công cụ (cùng với luật pháp, chính sách) để nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển của nền kinh tế, không phải là chèn ép, lấn át các thành phần kinh tế khác. Kinh tế tập thể, hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người, những cơ sở kinh tế sản xuất kinh doanh nhỏ, để hỗ trợ họ hoạt động, phát triển, có thêm sức mạnh khi tham gia thị trường có các chủ thể kinh tế lớn. Kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển ở các ngành, lĩnh vực có lợi cho quốc tế, dân sinh, trở thành những tập đoàn kinh tế lớn, đầu tư cả trong và ngoài nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế được khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, những dự án có trình độ công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, có chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý cua nhà nước và sự tham gia của các tổ chức xã hội, của nhân dân. Thị trường, với sự vận hành đầy đủ, đồng bộ của các quy luật của kinh tế thị trường, đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Nhà nước có vai trò là ban hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức, những quy trình, xây dựng và hoàn thiện thể chế, và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện những quy định đã ban hành; đồng thời, sử dụng các  lực lượng kinh tế của nhà nước để điều tiết, định hướng hoạt động, phát triển của nền kinh tế. Các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ công chức nhà nước, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, của thị trường; đồng thời phản ánh với nhà nước nguyện vọng của các thành viên hội viên, các tác động, ảnh hưởng việc xây dựng luật pháp, chính sách của nhà nước và vận động thành viên, hội viên thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của họ, có tác động, ảnh hưởng tới thị trường qua đó, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phân phối theo kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa phân phối theo lao động, vừa theo mức đóng góp vốn và các yếu tố sản xuất khác, đồng thời phân phối thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Với cơ cấu, cơ chế vận hành, cơ chế phân phối như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế phù hợp với thông lệ, tiêu chí chung trên thế giới ngày nay, kế thừa những thành tựu phát triển của kinh tế thị trường thế giới hơn 300 năm qua; đồng thời, có những đặc thù, tính chất riêng, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn của đất nước, tạo nên và bảo đảm định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội của nền kinh tế. Đây thực sự là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nền kinh tế này không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, các yếu tố vốn mang tính chất tư bản chủ nghĩa được quản lý, điều tiết, chuyển hóa, nhưng cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã, đang hình thành, phát triển; nền kinh tế đang định hướng, quá độ, từng bước đi tới chủ nghĩa xã hội.

Yếu tố đặc thù tạo nên tính chất riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường nhưng có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, thị trường điều tiết sản xuất và lưu thông. Song, kinh tế tư nhân và thị trường đều phải tuân thủ luật pháp, chính sách của nhà nước, hướng tới và đóng góp vào thực hiện những mục tiêu do luật pháp, chính sách đề ra. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển thành những tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động cả ở trong nước và nước ngoài, nhưng cũng được khuyến khích phát triển thành các công ty cổ phần, có sự tham gia rộng rãi của người lao động, tích cực tham gia, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Quan hệ phân phối vừa được thực hiện theo mức đóng góp vốn và các yếu tố sản xuất, nhưng đồng thời vừa được thực hiện theo lao động và thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Sự quan tâm đến lĩnh vực xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam được đặt ra mạnh hơn, cao hơn, đầy đủ hơn so với các nền kinh tế thị trường xã hội và kinh tế thị trường phúc lợi của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đòi hỏi phải gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước trong từng thời kỳ. Các vấn đề xã hội, những vấn đề liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, đời sống vật chất; tinh thần của nhân dân ở nước ta phải được quan tâm hơn, được giải quyết tốt hơn, đạt chỉ số cao hơn nước có trình độ phát triển kinh tế, có thu nhập bình quân đầu người như nước ta. Vai trò kiến tạo phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng lớn hơn, mạnh mẽ hơn so với vai trò của nhà nước trong mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở các nước tư bản hiện đại. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước vừa ban hành luật pháp, chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đồng thời, còn có khu vực kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để quản lý, điều tiết, định hướng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, gắn kết mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Đây là một yếu tố quan trọng để những nước đi sau đẩy nhanh sự phát triển, thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp các nước đã phát triển đã đi trước.

Dù còn nhiều vấn đề còn cần tiếp tục làm rõ, nhưng có thể khẳng định rằng: thời đại ngày nay đã tạo ra khả năng, cơ hội cho một nước chưa phát triển qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, chưa phát triển kinh tế thị trường, có thể phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử kinh tế thị trường, là một đột phá cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phất từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

 

 

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết