1. Văn hóa có vai trò “soi đường cho quốc dân đi” trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam
Đảng, Nhà nước Việt Nam rất coi trọng vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, điều đó không chỉ bắt nguồn từ truyền thống lịch sử dân tộc, mà còn ở sự khẳng định trên thực tế vai trò, ảnh hưởng to lớn của văn hóa Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm lịch sử. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày một quan niệm giản dị nhưng mang tính nguyên lý, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài là: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, với nội hàm hết sức sâu sắc, gồm các yếu tố: (1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập, tự cường. (2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. (3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi nhân dân trong xã hội. (4) Xây dựng chính trị: dân quyền. (5) Xây dựng kinh tế. Điều này cho thấy phạm vi rộng lớn, tầm ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, càng làm nổi bật hơn các mối quan hệ cơ bản giữa văn hóa với kinh tế, văn hóa với chính trị và văn hóa với sự phát triển xã hội.
Với tư cách là nền tảng tinh thần xã hội, là bộ lọc, định hướng giá trị và điều tiết hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và phát triển văn hóa suy cho cùng là hướng tới xây dựng con người. Con người làm nên lịch sử và quyết định tương lai của chính mình, trong đó có văn hóa, các đặc trưng văn hóa cộng đồng, dân tộc. Văn hóa định hình các giá trị chuẩn mực của con người, phù hợp với điều kiện lịch sử, các giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Đó cũng là cơ sở để phân biệt sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc, cũng như sự thấm sâu của văn hóa trong hoạt động của con người, trong sự vận hành của chế độ xã hội. Ở trong nước, mỗi khi kinh tế lâm vào khó khăn, chính trị xa rời tính nhân văn, xã hội khủng hoảng niềm tin, đạo đức xuống cấp, khi đó văn hóa đóng vai trò điều chỉnh trực tiếp, thông qua các giá trị cốt lõi như niềm tin, đạo đức, giá trị thẩm mỹ, truyền thống dân tộc, là động lực để giúp cho đất nước vượt qua những khó khăn đó. Khi quốc gia, dân tộc, Tổ quốc bị xâm lăng, văn hóa lại chính là chất keo kết dính, cố kết cộng đồng, sức mạnh nội sinh để đánh bại kẻ thù xâm lược. Trên ý nghĩa đó, văn hóa soi đường quốc dân đi.
Tư tưởng đó được thể hiện ngay từ buổi đầu cách mạng, khi bắt tay vào xây dựng chế độ mới, cho đến khi đất nước thống nhất, cùng với nhiều công việc cấp bách phải làm, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm “gây dựng nền tảng văn hóa”, đã đưa ra hàng loạt những chỉ dẫn cụ thể, như nỗ lực thực hành văn hóa toàn diện, thiết thực, nhanh chóng tạo ra hiệu ứng xã hội tích cực trong toàn dân, đem văn hóa vào dựng nước và giữ nước, “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, ánh sáng văn hóa tạo nên hào khí, sức mạnh nội sinh để đánh bại kẻ thù xâm lược, đồng thời đối với nhân dân, dân tộc, đất nước thì khai tâm, khái trí, hướng con người, cộng đồng vươn tới các giá trị chân-thiện-mỹ, những giá trị phổ quát của nhân loại, là nền móng vững chắc, kích hoạt tinh thần dân tộc, đoàn kết thống nhất các lực lượng, thành phần trong xã hội, chuẩn bị cho các giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước, đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, vai trò “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” tiếp tục được cụ thể hóa với nhiều nội hàm sâu sắc, phù hợp. Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, sau khi đất nước đã thống nhất, với nhiều đặc điểm khác biệt, để hướng tới mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đất nước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, phát triển; kinh tế chuyển từ kế hoạch tập trung sang mô hình kinh tế mới - kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới với nhiều thời cơ, thách thức đan xen, phải đi lên từ đặc điểm văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam. Bối cảnh đó đòi hỏi phải tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện từ tư duy, nhận thức; thể chế phát triển, đến tổ chức, bộ máy và con người thực hiện. Trong toàn bộ quá trong đó, văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có vai trò dẫn dắt, điều chỉnh, soi đường cho dân tộc, đất nước đi đến mục tiêu xác định. Bản thân văn hóa cũng phải đổi mới, vừa giữ gìn, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Văn hóa vừa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, là nền tảng tinh thần của xã hội. Công cuộc đổi mới cũng chính là sáng tạo văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngược lại bản thân văn hóa trên một ý nghĩa phổ quát cũng chính là đổi mới.
Chính vì vậy, từ Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), trong suốt quá trình đổi mới đất nước đến nay, để văn hóa làm tốt vai trò “soi đường cho quốc dân đi”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương quan trọng trong từng giai đoạn, tập trung xây dựng con người Việt Nam; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh trong xã hội; đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa..
2. Tính quy luật của phát triển văn hóa trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam
Khi xác định đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện nay, Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”, và “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Tư tưởng chỉ đạo này là sự phản ánh quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử nhân loại, qua các hình thái kinh tế - xã hội, được thực tiễn khẳng định. Ở Việt Nam, quá trình đi lên CNXH được xác định với nhiều bước đi, nhiều giai đoạn phân kỳ phát triển, phải trải qua thời kỳ quá độ với những cải biến xã hội sâu sắc. Trong quá trình đó, từng chặng đều xác định rõ mục tiêu, phương hướng, các mối quan hệ phải giải quyết và đặc biệt là mục tiêu tổng quát, đặc trưng về xã hội XHCN mà Việt Nam hướng tới. Theo đó, Cương lĩnh 2011, cũng chỉ rõ “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Tương ứng với mục tiêu tổng quát đó, 8 đặc trưng về mô hình xã hội XHCN, cũng được chỉ ra cụ thể, là những vấn đề mang tính quy luật, có mối quan hệ khăng khít hữu cơ với nhau, trong đó “có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Tính quy luật được thể hiện, phản ánh sự phát triển của văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế, chính trị, xã hội mà còn trực tiếp đóng góp chung vào sự phát triển đất nước, văn hóa thực sự gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, từng bước phản ánh rõ hơn tính chất của nền văn hóa tiến bộ, văn minh, khoa học, kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hướng đến hiện đại, theo xu thế phát triển của thời đại và văn minh nhân loại. Vai trò của văn hóa trong dẫn dắt, điều tiết sự phát triển kinh tế, xã hội bằng mục tiêu nhân văn, giá trị truyền thống và hiện đại, trở thành nền tảng tinh thần, tự hào dân tộc, gắn kết cộng đồng, tạo nên sức mạnh nội sinh, khát vọng vươn lên vì một nước Việt Nam XHCN phát triển theo hướng hiện đại.
Tính quy luật của xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình đi lên CNXH ở Việt Nam còn được thể hiện ở sự gắn bó hữu cơ, không thể tách rời giữa Việt Nam và thế giới, giữa yêu cầu phát triển văn hóa và đóng góp của văn hóa trong từng bước đi, từng giai đoạn phát triển từ thấp đến cao và cuối cùng là CNXH. Theo tiến trình phát triển của lịch sử, văn minh của nhân loại, xét trên tổng thể, thế hệ sau phải hơn thế hệ trước, đó là vấn đề mang tính quy luật. Đối với mỗi quốc gia, tùy theo đặc điểm riêng có, khả năng vận dụng quy luật mà tạo ra sự phát triển cao thấp khác nhau trên các lĩnh vực, trong đó có văn hóa. Thông thường, đối với mỗi một chế độ xã hội, một quốc gia, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều có sự tương đồng, gắn kết hữu cơ về trình độ phát triển, về sự tác động tương hỗ lẫn nhau giữa các lĩnh vực. Có thể vì nhiều lý do, ở quốc gia nào đó, lĩnh vực này phát triển nhanh hoặc chậm hơn lĩnh vực kia, nếu biết phát huy yếu tố văn hóa với tư cách là “hệ điều tiết”, “bộ lọc văn hóa”, quốc gia đó vẫn có thể tạo ra bước phát triển nhanh, đột phá. Thế giới ngày nay, khoa học, công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, tạo nên các giá trị văn minh vật chất và văn minh tinh thần, mà đỉnh cao là văn minh tinh thần. CNXH là giai đoạn phát triển cao của xã hội loài người trên các lĩnh vực, Việt Nam đi lên CNXH từ điểm xuất phát thấp, phải trải qua nhiều giai đoạn, đến năm 2030, 2045 và xa hơn nữa, với mục tiêu hướng tới xã hội XHCN. Trong quá trình đó, bản thân văn hóa sẽ cùng phát triển và là sức mạnh nội sinh, động lực, thậm trí là khâu đột phá, nền tảng tinh thần sẽ đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đó là vấn đề mang tính quy luật.
3. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đề cập trong nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII. Trong đó, tính tiên tiến và bản sắc dân tộc được hòa quyện, gắn bó hữu cơ trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, đảm bảo tính kế thừa và phát triển, vừa giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời đảm bảo tính mở, tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại. Đồng thời, nội hàm của tính tiên tiên và bản sắc văn hóa cũng được xác định rõ, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm, truyền thống của đất nước trong quá trình đi lên CNXH. Theo đó, tiên tiến trong văn hóa trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội; tiên tiến không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung; bản sắc văn hóa dân tộc, là các giá trị đặc trưng, tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, bản chất riêng của nền văn hóa, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, đó cũng là tổng hòa các khuynh hướng sáng tạo văn hóa, được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, thể chế chính trị…trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Bản sắc văn hóa được thể hiện rõ trong truyền thống dân tộc, là các giá trị văn hóa tiêu biểu được trao truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, được khai thác và phát huy, tiếp tục bồi đắp, tạo nên dòng chảy văn hóa của dân tộc từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
Mục tiêu chung hướng đến của quá trình xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam là phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, hướng tới chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có bước đi phù hợp, thích ứng với điều kiện, trình độ phát triển về kinh tế, xã hội, bối cảnh trong nước và quốc tế. Trong quá trình đó, việc từng bước xây dựng nền văn hóa tiên tiến, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh 2011 đã chỉ rõ, để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đòi hỏi: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”, Nghị quyết 33-NQ/TW, khóa XI, đưa ra 5 quan điểm: (1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. (2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. (3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, có lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. (4) Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. (5) Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hóa, con người. Mọi hoạt động văn hóa, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hóa; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tôn giáo, xây dựng các thiết chế văn hóa,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người”.
Nhờ những định hướng đúng đắn đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã bàn hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến nay, cả nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO công nhận. Đáng chú ý là có 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự kiện văn hóa trong và ngoài nước được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa, khoa học cho người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành. Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở trong nước cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, môi trường văn hóa lành mạnh luôn được quan tâm.
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ được coi trọng từ nguồn ngân sách nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa; Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương với tất cả các loại hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc tế cho người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong điều kiện công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn hóa, các thông tin sai trái, thù địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các quyền liên quan, công nghiệp văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm 2030, với 12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước quốc tế song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Chưa phát huy hết vai trò, tiềm năng của văn hóa đóng góp vào sự phát triển của đất nước, ở một số nơi chưa thực sự đặt văn hóa ngang bằng với kinh tế, xã hội; công tác tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm phát triển văn hóa ở một số lĩnh vực, địa phương còn hạn chế, cơ chế chính sách còn bất cập, đầu tư chưa tương xứng với yêu cầu phát triển, một số thiết chế văn hóa chưa sử dụng có hiệu quả; việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền, đặc biệt những nơi khó khăn còn chậm. Số lượng tác phẩm văn hóa có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật chưa tương xứng với yêu cầu phát triển văn hóa, đồng thời vẫn còn không ít tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp…Thực tế trên có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, như : Tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi, một số lĩnh vực chưa lường hết được tác động của tàn dư văn hóa cũ, lạc hậu, của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; nhận thức và việc cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về văn hóa ở một số địa phương, lĩnh vực chưa theo kịp yêu cầu phát triển; điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam còn không ít khó khăn, do đó đầu tư cho phát triển văn hóa còn hạn chế.
Từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho phép rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo, đề ra những nguyên tắc cơ bản, mục tiêu, quan điểm xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn. Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, xác định hợp lý, khoa học hệ tiêu chí, đặc trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam, đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp về văn hóa; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và người dân trong đó đội ngũ trí thức, những người làm văn hóa giữ vai trò nòng cốt.
- Đa dạng hóa nội dung, hình thức, phương thức xây dựng, phát triển văn hóa, con người; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa; tiếp biến văn hóa trong quá trình hội nhập và giữ gìn bản sắc; giữ tính tiến tiến, hiện đại với đậm đà bản sắc dân tộc; giữa thống nhất trong đa dạng với bản sắc vùng, miền, dân tộc thiểu số..
- Đặt văn hóa ngang bằng với chính trị, kinh tế, xã hội; thống nhất nhận thức về vai trò quan trọng của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước; huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, đầu tư cho văn hóa, con người là đầu tư cho phát triển.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống, gương người tốt, việc tốt; tổ chức tốt các sự kiện chính trị, phong trào quần chúng, đặc biệt là việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở..
4. Định hướng giải pháp phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời gian tới
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội và người dân về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước; tuyên tuyền gương người tốt, việc tốt, xây dựng gia đình văn hóa, môi trường văn hóa xã hội lành mạnh; coi trọng giáo dục truyền thống, tự hào, tự tôn dân tộc; phát triển văn hóa cũng là để xây dựng con người có nhân cách và xây dựng con người cũng là để phát triển văn hóa bền vững, tiếp tục cụ thể hóa đặc trưng văn hóa, đặc tính con người Việt Nam trong điều kiện mới, hoàn thiện hệ giá trị chuẩn mực văn hóa, con người; phát huy tốt vai trò của văn hóa với tư cách là hệ điều tiết phát triển xã hội.
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, coi trọng xây dựng luật pháp, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; bổ sung, hoàn thiện một số cơ chế, chính sách mang tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số; một số quy định pháp luật về những vấn đề liên quan đến quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với luật pháp quốc tế; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn chỉnh hệ tiêu chí về văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, cụ thể hóa nội dung văn hóa trong chính trị và kinh tế, coi trọng việc đánh giá các tác động của các chính sách kinh tế đối với văn hóa và ngược lại xây dựng tiêu chí văn hóa cho cấp ủy đảng các cấp. Tăng cường đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nâng cao khả năng dự báo, định hướng phát triển văn hóa, con người. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân và giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Huy động các nguồn lực xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa; coi trọng bảo tồn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số. Có các chính sách mới, phù hợp nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, hưởng thụ văn hóa ở các vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Phát triển các thiết chế văn hóa, đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng, phù hợp với vùng miền, tập quán dân tộc. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, minh bạch, công khai và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển văn hóa, đầu tư cho văn hóa phải tương đương với tăng trưởng kinh tế. Phát triển công nghiệp văn hóa.
Bốn là, quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa phù hợp với yêu cầu mới, đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác văn hóa, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, nhất là cán bộ đầu đàn, chuyên gia đầu ngành, doanh nhân trong lĩnh vực văn hóa, nghệ nhân. Có chính sách phù hợp thu hút cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số trong các lĩnh vực văn hóa ở cơ sở. Quy hoạch lại hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó vừa đảm bảo nhu cầu đào tạo các lĩnh vực văn hóa quần chúng, vừa chú trọng đào tạo chuyên sâu. Xây dựng một số trường đại học nghiên cứu về văn hóa mang tầm khu vực. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tôn vinh, đãi ngộ, trọng dụng những người tài, đặc biệt là những lĩnh vực văn hóa đặc thù.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện các quy định về văn hóa, đạo đức, lối sống. Đẩy mạnh và đưa vào chiều sâu việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi trọng hiệu quả, chất lượng; thực hiện phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính trị, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược về các nội dung liên quan đến đạo đức, văn hóa.
Gắn kết ngay từ đầu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa. Triển khai thực hiện có lộ trình đặt ngang hàng văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội về nhiệm vụ, đầu tư kinh phí, trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức xã hội và người dân; phát huy vai trò các phương tiện truyền thống đại chúng trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới./.
PGS.TS Phạm Văn Linh
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương