Thứ Bảy, ngày 18 tháng 05 năm 2024

Dư luận thế giới về nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười từ trần

Ngày phát hành: 04/10/2018 Lượt xem 1819

TTXVN (New York) - Ngày 1/10, nhiều hãng truyền thông báo chí (AP, Newyork Times, Washington Post, VOA, RFA) đưa tin nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã qua đời, hưởng thọ 101 tuổi.
Nhìn chung dư luận báo chí tại Mỹ đánh giá tích cực về cố Tổng Bí thư Đỗ Mười đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, trong đó có một số điểm đáng chú ý:
- Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười là người Cộng sản kiên trung của cách mạng Việt Nam. Ông là cán bộ tiền khởi nghĩa, tham gia phong trào kháng chiến chống chế độ thực dân Pháp từ rất sớm (từ thập niên 30 của thế kỷ trước). Mặc dù ông từng bị kết án nhiều năm tù dưới chế độ thực dân Pháp nhưng ông luôn giữ vững lập trường cách mạng kiên định, quyết tâm đánh đuổi thực dân và đế quốc; xóa bỏ chế độ bóc lột và đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội.

 

        Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói chuyện thân mật với nhân dân xã Lê Lợi, huyện

Thường Tín,ngày 1/11/1992. (Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN)


- Sau khi cách mạng Việt Nam giành được chính quyền năm 1945, ông đảm nhiệm nhiều vị trí, trọng trách công tác khác nhau và đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười được đánh giá là người định hình khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam. Với vị trí Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười đã đưa ra chủ trương “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên vào tháng 11/1991 và sau đó được Việt Nam thể chế hóa vào Hiến pháp năm 2013. Ông cũng là người từ chức Tổng Bí thư giữa nhiệm kỳ 2(1997) để nhường vị trí này cho ông Lê Khả Phiêu.
- Với những đóng góp to lớn cho đất nước, cố Tổng Bí thư Đỗ Mười sẽ được tôn vinh với một tang lễ cấp nhà nước dành cho vị trí Tổng Bí thư.
Theo đài BBC, nhận định về vai trò của cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, các nhà bình luận nước ngoài cho rằng trên cương vị Tổng Bí thư (6/1991-12/1997), ông Đỗ Mười đã giữ vai trò quan trọng trong việc tiếp tục cải cách kinh tế, hội nhập quốc tế và duy trì vai trò lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Murray Hiebert, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Washington DC nêu rõ: “Ông từng dẫn dắt việc thi hành một số chính sách kinh tế XHCN cứng rắn ở miền Nam đầu thập niên 1980. Họ nghĩ rằng ông sẽ làm chậm lại cải cách kinh tế. Nhưng ông làm họ ngạc nhiên, và tiếp tục di sản cải tổ kinh tế của ông Nguyễn Văn Linh.
Khi trở thành Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười nhận ra cải tổ kinh tế, nhất là sau khi Liên Xô sụp đổ, là cần thiết để tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư, và bảo vệ sự tồn tại trong tương lai của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
David W.P. Elliott, tác giả cuốn “Changing Worlds: Vietnam's Transition from Cold War to Globalization” (Việt Nam: Từ Chiến tranh lạnh đến toàn cầu hóa- 2012) bình luận: “Cuốn sách của tôi viết về ông Đỗ Mười, người trực tiếp dẫn dắt “việc chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội” cuối thập niên 1970. Thời kỳ ông lãnh đạo từ Đại hội Đảng tháng 7/1991 đến cuối 1997, đặt dấu ấn lên các chính sách trong phần lớn thập niên 1990”.
Anton Tsvetov, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược, Moskva bình luận: “Ông Đỗ Mười là một trong những chính khách phủ bóng lên lịch sử Việt Nam. Cuộc đời ông, kéo dài hơn một thế kỷ, cũng cho thấy những thay đổi mà Việt Nam trải qua suốt một đời người.
Ông sinh ra trong những năm tháng nước Nga chứng kiến cuộc cách mạng tư sản để mở đường cho cách mạng XHCN. Sự kiện đó truyền cảm hứng cho các lực lượng cộng sản toàn thế giới, như Việt Nam. Ông Đỗ Mười ở trung tâm của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân Pháp, sự can thiệp của Mỹ và trở thành một trong số các lãnh đạo Việt Nam trong những năm khó khăn của ‘chủ nghĩa xã hội thuần túy’.
Quan trọng hơn cả, ông lên đến đỉnh cao tại một thời điểm quyết định trong lịch sử Việt Nam, trở thành một trong những kiến trúc sư của ‘Đổi Mới’. Đầu thập niên 1990, khi ông trở thành Tổng Bí thư cũng là lúc Việt Nam có biến đổi nhanh chóng hướng tới nền kinh tế mang màu sắc thị trường.
Quan trọng không kém, đó là thời mở cửa của đất nước, thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi, gia nhập cộng đồng quốc tế, khôi phục quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN. Tôi từng ở Việt Nam những năm tháng đó, được chứng kiến nhịp độ thay đổi và phát triển của đất nước thật đáng kinh ngạc. Cảm giác như con người khi đó tìm thấy lập trường hoàn toàn mới mẻ về cuộc sống, đất nước, và bắt đầu nhìn thấy tương lai về một cuộc sống phồn vinh, an bình”.
Alexander Vuving, thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K. Inouye, Honolulu, Hawaii bình luận: “Ông Đỗ Mười là nhà lãnh đạo “chủ chốt” của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ông là Thủ tướng cuối cùng của thời kỳ Chiến tranh Lạnh và là Tổng Bí thư đầu tiên của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Trên những cương vị này, ông đã để lại dấu ấn to lớn đối với quá trình Đổi Mới cũng như con đường đi của Việt Nam trong những thập niên vừa qua….
Một quyết định đầy tính uyển chuyển và thực tế của ông là cho đình chỉ in tiền, nâng lãi suất ngân hàng, phá giá đồng tiền Việt Nam, cho kinh doanh vàng bạc tự do. Đây là một quyết định có ý nghĩa cách mạng lúc đó (1989) vì vấp phải cản trở giáo điều của đa số các quan chức chính phủ và không nhận được sự đồng thuận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhưng điều đó đã giúp Việt Nam chống lạm phát phi mã thành công trong cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội cuối những năm 1980. Trên cương vị Tổng Bí thư Đảng và sau này là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, ông để lại nhiều dấu ấn không chỉ trong các chính sách của Đảng, mà đặc biệt là công tác cán bộ, tức là việc bổ nhiệm các nhà lãnh đạo của đất nước. Có thể nói, ông Đỗ Mười cùng với ông Nguyễn Văn Linh là 2 người để lại dấu ấn lớn nhất, “đặt đường ray” cho thời kỳ “Đổi Mới” của Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ 1986-2006”.
Regina Abrami, Trưởng khoa nghiên cứu quốc tế, Viện Lauder (Mỹ) bình luận: “Ông Đỗ Mười là một ‘tín đồ’ XHCN kiên định. Trong thập niên 1990, khi sức ép đòi hỏi tự do kinh tế và chính trị tăng lên, ông Đỗ Mười khẳng định phải từ từ.
Để làm điều đó, ông xây dựng liên minh với các thành tố chính trị, xã hội, kinh tế có thể bị ảnh hưởng vì sức ép”…
Brantly Womack, Đại học Virginia (Mỹ) bình luận:Giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Đỗ Mười tin vào sự lãnh đạo tập thể và xây dựng sự đồng thuận. Dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng Cộng sản Việt Nam đã duy trì sự đoàn kết cũng như chấp nhận quan điểm khác của nhau trong những lúc khó khăn…
Giai đoạn ông làm Tổng Bí thư cũng chứng kiến tiến bộ to lớn trong các quan hệ quốc tế của Việt Nam như bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), gia nhập ASEAN (1995) và bình thường hóa với Mỹ (1995).
*Theo đài VOA, ngay khi lên làm Tổng Bí thư vào tháng 6/1991, ông Đỗ Mười đã đưa ra cái gọi là “Nhà nước pháp quyền XHCN,” lần đầu tiên được nêu tại Hội nghị lần thứ 2 khóa VII vào tháng 11/1991, sau đó tiếp tục được “khẳng định” và “thể chế hóa” trong Hiến pháp năm 2013.
Trong giai đoạn từ sau năm 1975-1991, ông Đỗ Mười làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản của Trung ương, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế kiêm Phó Thủ tướng, và sau đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, là người chỉ huy trực tiếp các chiến dịch “đánh tư sản” hay còn gọi là “cải tạo công thương nghiệp,” với vai trò là Trưởng ban cải tạo tư sản trung ương, thành lập ngày 16/2/1976.
Ông Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư 2 nhiệm kỳ liên tiếp, tại Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và thứ VIII (1996), với lập trường quyết liệt trong việc đánh đổ đế quốc và xóa bỏ bóc lột, cũng như kiên định đi theo con đường CNXH.
Sau Hội nghị Trung ương 4 (khóa VIII) vào tháng 12/1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười từ chức và từ năm 1997 đến năm 2001, ông được cử làm Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, được trao danh hiệu 85 tuổi Đảng./.

 

Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết