Thứ Năm, ngày 28 tháng 03 năm 2024

Hoàn thiện thể chế phát triển doanh nghiệp - nội dung quan trọng trong xây dựng thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới

Ngày phát hành: 12/02/2019 Lượt xem 4593

1. Một số vấn đề về thể chế phát triển doanh nghiệp 
a. Những thành tựu và hạn chế về thể chế phát triển doanh nghiệp thời gian qua
Kể từ khi đổi mới cho đến nay, để phát triển doanh nghiệp, công tác xây dựng thể chế phát triển doanh nghiệp thông qua việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú ý. Nhà nước đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật. Các Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp (năm 2005), Luật Đầu tư (năm 2005) cùng với việc triển khai các đề án cải cách hành chính, thực hiện chính sách cổ phần hóa, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đã mở ra cơ chế mới cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Bằng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để các doanh nhân tiếp cận các nguồn lực kinh doanh như vốn, thị trường, công nghệ, mặt bằng sản xuất và nguồn nhân lực. Các chính sách này đã cải thiện kỹ năng kinh doanh cho doanh nhân, khuyến khích doanh nhân sáng tạo và mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm và liên tục được hoàn thiện trong những năm gần đây.
Nghị định 90/2001/NĐ-CP về chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đã thúc đẩy hình thành mạng lưới các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp trên phạm vi cả nước. Chương trình đào tạo doanh nghiệp; Chương trình khuyến công, Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm, Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ tài sản trí tuệ,...v.v. đã hỗ trợ các doanh nhân mở mang kiến thức về thị trường quốc tế, phát triển và giới thiệu sản phẩm xuất khẩu, xây dựng các thương hiệu mạnh. Năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP thay thế Nghị định 90/2001 về trợ giúp phát triển DNNVV và gần đây nhất là việc ban hành Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017.
Công tác hoàn thiện pháp luật, chính sách đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hàng chục các văn bản quy phạm pháp luật/ hiệp định quốc tế và luật lớn tác động lớn tới cộng đồng doanh nghiệp được tiếp tục ban hành, sửa đổi, hoàn thiện như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh Bất động sản, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý Thuế, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Kế toán, Luật Hải quan, Luật bảo vệ môi trường, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, Bộ Luật Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Công đoàn, Luật Khoa học công nghệ, Luật phá sản.v..
Đảng và Nhà nước cũng đã tạo điều kiện phát huy vai trò của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc tập hợp các doanh nghiệp, doanh nhân tạo tiếng nói đồng thuận và tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng, tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật, cải thiện môi trường kinh doanh. Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2005 và ban hành mới Nghị định 45/2010/NĐ-CP  ngày 21 tháng 4 năm 2010 về tổ chức và quản lý, tạo điều kiện cho các hiệp hội doanh nghiệp phát triển. Hiện tại trên cả nước có khoảng trên 400 hội và hiệp hội doanh nghiệp được thành lập và hoạt động. Phần lớn các hội và hiệp hội doanh nghiệp đã trở thành hội viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển cộng đồng doanh nghiệp. 
Tuy nhiên, mặc dù Đảng và Nhà nước có chủ trương, cơ chế, giải pháp để khuyến khích phát triển doanh nghiệp, nhưng trong việc hoạch định chiến lược và xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, việc đánh giá vai trò và định hướng chính sách phát triển doanh nghiệp vẫn còn mờ nhạt, nhất là đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi còn chưa đồng bộ, thiếu minh bạch; một số bộ luật quan trọng, có liên quan trực tiếp đến phát triển doanh nghiệp, doanh nhân thực thi kém hiệu quả, như Luật Cạnh tranh, Luật Phá sản. Cải cách hành chính chưa triệt để, còn nhiều thủ tục gây phiền hà cho doanh nghiệp, doanh nhân, tình trạng giấy phép con vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Các chính sách thường thay đổi, khó tiên liệu làm giảm lòng tin của doanh nghiệp. 
  Các doanh nghiệp, thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được thực sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, nhất là vốn và đất đai. Các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp quy mô nhỏ tiếp cận các nguồn lực này khó hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước. Các chính sách khuyến khích đầu tư còn riêng rẽ, manh mún, mới tập trung ưu đãi đầu tư theo chiều rộng, chưa tạo được tác động mong muốn đối với mục tiêu chính sách. Hệ thống ưu đãi quá phức tạp và tốn kém đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc kiểm soát độc quyền, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh chưa hiệu quả; Các cấp chính quyền một số địa phương vẫn còn lúng túng trong việc đưa ra các biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với doanh nghiệp, doanh nhân, đặc biệt là đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hệ thống các giải pháp chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh và hỗ trợ phát triển DN, đặc biệt hỗ trợ DNNVV còn tản mát, quy mô chưa đủ lớn, thiếu trọng tâm, theo đó nổi lên một số vấn đề sau: 
- Mục tiêu chính sách chưa nhất quán: Các chính sách hiện hành dường như tập trung hỗ trợ việc đăng ký kinh doanh, tạo điều kiện cho khởi nghiệp chứ chưa phải cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp đông nhưng không mạnh, đa phần là có quy mô nhỏ.  Các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp nhiều nhưng chưa giúp cho DN vượt qua cản trở do quy mô nhỏ gây ra. Trong một số trường hợp, DNNVV có thể được ưu đãi hơn so với các DN lớn nhưng lại thường làm cho các DNNVV không có động lực trở nên lớn hơn, trừ phi quy mô lớn đến mức mang lại lợi thế hơn hẳn. Trên thực tế hỗ trợ mà các DN trông đợi nhiều hơn đó là việc tiếp cận những nguồn lực đầu vào và thị trường đầu ra. 
- Các thể chế hỗ trợ thị trường hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là đối với DNNVV- phải chịu nhiều áp lực của thủ tục hành chính phức tạp, tốn kém. Doanh nghiệp sẽ hoạt động ổn định nếu như hệ thống pháp luật về hợp đồng, thực thi hợp đồng, giao dịch đảm bảo rõ ràng, cơ chế giải quyết tranh chấp và rút khỏi thị trường đáng tin cậy. Khu vực này luôn mong mỏi sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp một cách tích cực hơn, đặc biệt là cách ứng xử thân thiện, giải quyết các thủ tục hành chính nhanh gọn, không gây phiền hà cho doanh nghiệp. Có thể nêu ra một số điểm nghẽn lớn cần tập trung giải quyết sớm như sau:
(1)Thể chế kinh tế vi mô.
Các thể chế kinh tế vi mô chưa tạo được điều kiện thuận lợi để khơi thông nguồn lực đầu vào (vốn, đất đai, công nghệ, lao động cho các doanh nghiệp). Đây là các “điểm nghẽn” lớn dẫn đến chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam cao, không tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Chẳng hạn như:   
Đối với nguồn lao động: Hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Các chương trình đào tạo đại học và sau đại học về quản trị kinh doanh chưa thực sự gắn với thực tiễn, thiếu liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nghề lạc hậu đã làm hạn chế năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Đối với nguồn vốn: Thị trường vốn chủ yếu tập trung vào tín dụng ngân hàng. Thị trường chứng khoán chưa thu hút được sự tham gia của các doanh nghiệp. Các tiếp cận trong xây dựng chính sách trợ tài chính cho DNNVV Việt Nam chưa dựa trên quan hệ thị trường và không đảm bảo tính bền vững, dựa chủ yếu vào công cụ thuế. Chính phủ đã triển khai các chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các DNNVV như bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế thì mới có một số lượng nhỏ các doanh nghiệp đã được thụ hưởng chính sách hỗ trợ này, minh chứng cho những hạn chế của hệ thống hỗ trợ tài chính này. 
Đối với đất đai: Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp đối với đất đai hoạt động chưa hiệu quả, dẫn đến chi phí tiếp cận mặt bằng sản xuất và đất đai phục vụ kinh doanh cao. 
(2)Thể chế liên kết doanh nghiệp.
Liên kết theo chuỗi cung ứng: Ở Việt Nam liên kết giữa các doanh nghiệp theo chuỗi cung ứng rất hạn chế dẫn đến năng suất lao động thấp (Charles Kunaka, 2017). Đây là hệ quả của việc thiếu vắng thể chế hỗ trợ mối liên kết này. Có rất ít mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp có qui mô lớn hơn. Hiện đang tồn tại hiện tượng hai mặt tương phản ở Việt Nam: một mặt là các doanh nghiệp trong nước năng suất thấp; mặt khác lại là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có năng suất cao với hoạt động sản xuất dựa trên các phương pháp và công nghệ hiện đại. Những doanh nghiệp đầu tư nước ngoài này thường là doanh nghiệp qui mô lớn (sử dụng trên 1.000 công nhân), có tỉ suất lợi nhuận tương đối nhỏ (10-15% hoặc ít hơn) và không sản xuất phục vụ thị trường nội địa. Trái lại, các doanh nghiệp sản xuất đáp ứng thị trường nội địa lại chủ yếu là vô số các doanh nghiệp nhỏ. Một bộ phận trong số đó có tỉ suất lợi nhuận cao (20-30%). Trong quá trình sản xuất của các DN Việt Nam có rất ít sự gắn kết vào chuỗi giá trị. Điều này khác với hầu hết các nước có năng suất cao, nơi mà việc hợp đồng thầu phụ giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ rất phổ biến. Đối với các ngành sản xuất trong nước, thiếu tính hiệu quả kinh tế theo qui mô và thiếu sự cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu có nghĩa là họ không có động lực để tiếp thu phương thức và công nghệ sản xuất mới.
Liên kết thông qua hiệp hội doanh nghiệp: Hệ thống thể thể chế chính sách chưa tạo điều kiện và phát huy tốt vai trò của các Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là trong công tác phát triển thị trường và phòng vệ thương mại. Hoạt động của một số Hiệp hội doanh nghiệp còn mang tính hình thức, cơ quan thường trực của nhiều hiệp hội còn hạn chế về năng lực, không chuyên nghiệp và vẫn có tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước. Số lượng doanh nghiệp, doanh nhân tham gia vào các hiệp hội còn ít. Việc quản lý và phát huy vai trò của hiệp hội doanh nghiệp từ phía cơ quan quản lý còn nhiều lúng túng. 
(3) Thể chế bảo đảm sự cạnh tranh công bằng. 
Việt Nam vẫn đứng trong khoảng giữa của các quốc gia so sánh về mức độ cạnh tranh trên thị trường nội địa. Các so sánh cho thấy mối quan ngại không chỉ về chất lượng của các thể chế liên quan đến cạnh tranh mà còn cả về hiệu lực thực thi. Về thước đo này, Việt Nam xếp thứ thứ 87 trên thế giới và thứ 12 trong khu vực.
Hạn chế chính đối với cạnh tranh là vị trí thống lĩnh của các DNNN trên nhiều thị trường. Sự hiện diện của các DNNN không phải là bất thường ở nhiều nền kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực độc quyền tự nhiên (các tiện ích công) hoặc thâm dụng vốn (cơ sở hạ tầng lớn), nhưng thị trường có tính cạnh tranh lại dành rất nhiều dư địa cho khu vực tư nhân làm ăn phát đạt. Tuy nhiên, ở Việt Nam, DNNN có mặt gần như ở mọi nơi, bao gồm cả trong các lĩnh vực như sản xuất hàng may mặc, dịch vụ điện thoại di động, ngân hàng, là những nơi mà doanh nghiệp tư nhân có thể làm tốt hơn DNNN.  Nhà nước đã không  giữ được vai trò trung lập đối với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân, mà lại còn dành cho DNNN những ưu đãi về tiếp cận tài chính, đất đai, các hợp đồng mua sắm của chính phủ, trợ cấp nhà nước và những ưu đãi về thuế. Tất cả những điều này đều làm suy yếu khả năng tồn tại của các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước ở Việt Nam (Bộ KHĐT, 2016).
b. Nguyên nhân của những hạn chế trong thể chế phát triển doanh nghiệp
Những hạn chế nêu trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Về khách quan, nền kinh tế nước ta đi lên từ một điểm xuất phát thấp, với ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung bao cấp và đang trong quá trình chuyển đổi. Việc xây dựng thể chế bước đầu tập trung vào việc ban hành các quy định chính sách pháp luật trên diện rộng, đảm bảo tất cả các hoạt động kinh doanh đều được quản lý bằng pháp luật. Phải ở những năm tiếp theo mới diễn ra quá trình thực hiện, rút kinh nghiệm. Sau đó công tác xây dựng thể chế mới đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả và đưa ra được những định chế ngày càng phù hợp hơn.
Về chủ quan, nhận thức về vai trò của doanh nghiệp, nhất là đối với khu vực tư nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn thể hiện một số điểm chưa rõ ràng, chưa tạo ra sự đồng thuận về nhận thức của toàn xã hội; Việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp còn lúng túng, chưa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Năng lực xây dựng các văn bản pháp lý và chính sách liên quan đến phát triển doanh nghiệp còn yếu kém, thiếu tư duy đồng bộ, tầm nhìn chiến lược ngay từ thiết kế ban đầu, đôi khi còn mâu thuẫn, hiệu lực thi hành thấp, không ổn định, hay thay đổi đã làm ảnh hưởng tới chiến lược và định hướng kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống tiêu chí và phương pháp luận xây dựng chính sách chưa rõ ràng, công tác triển khai chính sách diễn ra chậm chạp. Việc giám sát đánh giá thực thi chính sách còn hạn chế dẫn đến nhiều hạng mục trong các kế hoạch hỗ trợ phát triển doanh nghiệp không hoàn thành đúng thời hạn. Cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp còn mang tính bao cấp không phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường làm phân tán nguồn lực của Nhà nước vào một số doanh nghiệp có lợi thế về thông tin và quan hệ. Một số chính sách ưu đãi chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích doanh nhân đầu tư vốn kinh doanh ở các vùng khó khăn và kém lợi thế. 
Bộ máy hành chính và năng lực đội ngũ công chức còn nhiều bất cập khiến cho công cuộc cải cách hành chính chưa đạt được kết quả mong muốn. Hệ thống các tổ chức trợ giúp doanh nghiệp và doanh nhân như: hệ thống đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân; hệ thống dịch vụ phát triển kinh doanh, vườn ươm doanh nghiệp... còn nhiều hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Đảng và Nhà nước chưa có những cơ chế, hệ thống chế tài (thanh lọc và xử phạt) kịp thời và phù hợp để ngăn ngừa, đẩy lùi, kiểm soát những hiện tượng trục lợi bằng cách sách nhiễu, cố tình gây khó khăn đối với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình đăng ký thành lập doanh nghiệp và triển khai các dự án; hiện tượng móc nối giữa giữa những phần tử thoái hóa, biến chất trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp có quy mô lớn thuộc sở hữu nhà nước.
2. Những yêu cầu mới về thể chế phát triển doanh nghiệp nhằm mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới 
a. Bối cảnh giai đoạn mới

Thế kỷ XXI là thế kỷ có nhiều nhân tố tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, tạo nên vai trò ngày càng quyết định doanh nghiệp. Những nhân tố đó là: 
- Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt. Thế giới có nhiều biến đổi khó lường thậm chí không thể dự đoán…
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi sự phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào tăng năng suất lao động, đổi mới và sáng tạo. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đòi hởi các doanh nghiệp không những phải có khả năng khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, mà còn phải đi tiên phong trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ cao, gắn chặt sự nghiệp kinh doanh của mình với các hoạt động của đội ngũ trí thức. Nền văn minh nhân loại đang có những bước tiến nhảy vọt nhờ vào những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Kỷ nguyên công nghệ số (Big Data) và công nghệ viễn thông thay đổi diện mạo nền kinh tế, vừa tạo ra những cơ hội lớn nhưng cũng kèm theo thách thức lớn 
- Sự biến đổi khí hậu, chủ yếu do con người gây ra, đang đưa ra những cảnh báo về trách nhiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp về nghĩa vụ của mình với môi trường và trái đất. 
b. Yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới 
Nhiệm vụ phát triển: Sau gần 35 năm đổi mới, nước ta đạt được những tiến bộ quan trọng về kinh tế-xã hội với sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của cả xã hội: doanh nghiệp đang trở thành một lực lượng quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đảm bảo mục tiêu nhanh và bền vững, xét theo ba phương diện sau: 
Một là, để đạt được mục tiêu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững, trong đó “doanh nghiệp là động lực chính của sự phát triển”. 
Hai là, Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã ký kết tham gia hiệp định CPTPP và hội nhập ngày càng sâu rộng. Để tận dụng được những cơ hội và vượt qua những thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất định phải phát triển doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên giới.
Ba là, trong những năm tới Đảng và Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Các nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xã hội chủ yếu cho những năm tới là: (1) Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô kiểm soát lạm phát, đồng thời duy trì đà tăng trưởng; (2) Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng trưởng hợp lý; (3) Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế với 3 trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng; (4) Thực hiện ba đột phá chiến lược đó là đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung nguồn phát triển nhanh hơn kết cấu hạ tầng then chốt, đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo và đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh.
Yêu cầu từ phía doanh nghiệp:Về căn bản, nỗ lực của chính bản thân cộng đồng doanh nghiệp vẫn là yếu tố mang tính chất quyết định để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và khắc phục được những hạn chế khó tránh khỏi do trình độ phát triển (ví dụ: do quy mô nhỏ của doanh nghiệp), hay do những vấn đề của địa kinh tế. Các doanh nghiệp sẽ phải tập trung cải thiện năng suất lao động, hội nhập tốt hơn với kinh tế quốc tế, tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững và ổn định lâu dài. Đồng thời, phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu phát triển, nâng cao năng lực công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Yêu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác công tư, hình thành các doanh nghiệp đầu tàu trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tạo nên chuỗi giá trị bền vững và chuỗi cung ứng hiệu quả đang  được đặt ra ngày càng cấp bách. Phấn đấu phải có nhiều doanh nghiệp có tầm cỡ trong khu vực, đóng vai trò đầu tàu để dẫn dắt các DNNVV. Bên cạnh đó là việc phải thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động tham gia vào công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế địa phương, kinh tế vùng để khai thác lợi thế cạnh tranh, khai thác tối ưu nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn nguyên liệu, đảm bảo cho các quy hoạch tổng thể phát triển ngành, vùng và việc tái cấu trúc kinh tế của Nhà nước phát huy hiệu quả.
3. Định hướng cải thiện hiệu quả thể chế trong giai đoạn mới 
Tính cấp bách của việc tăng trưởng năng suất để đạt được khát vọng tăng trưởng nhanh và bền vững đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng cải thiện tính hiệu quả của thể chế theo các định hướng sau:
a.  Cải các các thể chế bảo đảm sự cạnh tranh công bằng và tự do
Cạnh tranh hữu hiệu là rất cần thiết đối với sự phát triển doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp thường mua nhiều yếu tố đầu vào của mình như vận tải, năng lượng, viễn thông, dịch vụ tài chính trên thị trường trong nước. Nếu các thị trường thượng nguồn thiếu cạnh tranh, thì hàng hóa và dịch vụ cần thiết cho sản xuất không được định giá một cách cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp mới trong nước có thể khó gia nhập thị trường hoặc doanh nghiệp hiện tại có thể trở nên kém cạnh tranh hơn so với các đối thủ nước ngoài và DNNN. Các cuộc cải cách mở cửa thị trường và dỡ bỏ các quy định hạn chế cạnh tranh sẽ dẫn đến sự cải thiện đáng kể về năng suất. 
Việt Nam cần có một khuôn khổ chính sách cạnh tranh toàn diện nhằm mở cửa thị trường cho doanh nghiệp gia nhập và cạnh tranh, và tăng cường hiệu lực thực thi chính sách cạnh tranh. Chính sách và khung pháp lý này cần phản ánh bốn nguyên tắc chính: áp dụng đồng đều đối với tất cả các doanh nghiệp (tư nhân hoặc nhà nước); tập trung đấu tranh chống các hành vi hạn chế cạnh tranh có hại nhất (chẳng hạn như các cac-ten); tập trung ngăn chặn hành vi hạn chế cạnh tranh chứ  không phải là kiểm soát và điều tiết giá; và hoạt động trong khuôn khổ qui tắc, minh bạch, công bằng và không phân biệt đối xử. Những sai lệch với các nguyên tắc này phải là rất ít, và chỉ để đáp ứng các mục tiêu quốc gia được xác định một cách rõ ràng và áp dụng một cách công bằng và minh bạch. 
Trong xây dựng chính sách cạnh tranh công bằng cần có cải cách triệt để doanh nghiệp Nhà nước:
- Để giảm thiểu sự “lấn sân” của các DNNN đối với doanh nghiệp  cần phải đảm bảo rằng khi DNNN chỉ nên có mặt ở những lĩnh vực quan trọng có vai trò quyết định và làm cơ sở cho sự phát triển các ngành kinh tế khác. Đó là những ngành kinh tế đòi hỏi một khoản đầu tư lớn và lâu dài, cần có “lực kéo” của nhà nước thông qua các tổng công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước. Ngược lại, ở các ngành kinh tế, nơi mà các doanh nghiệp tư nhân đã đủ lớn mạnh để có thể đảm đương được trách nhiệm phát triển ngành, thì vai trò của các DNNN, nhất là của các tập đoàn kinh tế nhà nước là không cần thiết. Chính phủ phải xác định rõ những lĩnh vực này và hạn chế sự “xuất hiện” của các DNNN tại những lĩnh vực không cần thiết.
- Cần áp dụng triệt để các nguyên tắc, kỷ luật thị trường trong hoạt động của DNNN, như hạch toán đầy đủ các chi phí vốn, buộc doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp phải chịu đầy đủ trách nhiệm trong hoạt động của mình, tách bạch các hoạt động kinh doanh và hoạt động chính trị - xã hội. 
- Thực hiện vai trò dẫn dắt của DNNN thông qua tái cấu trúc doanh nghiệp.
b. Nâng cao hiệu quả thể chế hỗ trợ của doanh nghiệp phát triển thông qua thực thi Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở để Việt Nam có chiến lược trợ giúp DNNVV, tăng tỷ lệ DN có quy mô vừa và lớn tạo nên sự đột phát về năng suất nội tại của doanh nghiệp và năng suất lao động quốc gia. Mặc dù Luật Hỗ trợ DNNVV đã có hiệu lực được gần một năm song việc triển triển khai thực hiện là một vấn đề lớn. Thách thức lớn nhất hiện nay đó chính là việc xây dựng các bộ công cụ, mô hình hỗ trợ hiệu quả, mang tính bền vững và phù hợp với cơ chế thị trường.
c. Tăng cường các thể chế liên kết
- Tạo mối liên hệ theo chuỗi cung ứng 
Cần tập trung vào cải thiện các thể chế nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp xuất khẩu có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng suất. Cần có giải đáp những vấn đề xuyên suốt như đẩy mạnh khu vực dịch vụ hiện đại, một đầu vào quan trọng cho ngành chế biến, chế tạo, và cải thiện kết nối giữa các trung tâm chuỗi cung ứng tại Việt Nam với các đối tác thương mại bên ngoài;  Tạo mối liên hệ giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ, DN trong nước và nước ngoài. Cần xác định các mối liên kết giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thực chất cũng vẫn là mối quan hệ bạn hàng, giữa người bán và người mua trên cơ sở thực thi các hợp đồng mua bán. 
- Quản lý các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Cần ban hành Luật về hội và tạo điều kiện để các Doanh nghiệp FDI tham gia tích cực vào hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp, tăng cường chức năng đại diện doanh nghiệp của các hiệp hội doanh nghiệp, hoạt động  tham vấn chính sách nhất là chính sách phát triển vùng;  Nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc giám sát chất lượng và xác nhận tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tuân thủ pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã hội của các  doanh nghiệp hội viên;  Khuyến khích chia sẻ chi phí để tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm, phát triển thương hiệu chung và tiếp nhận các dịch vụ công từ khu vực Nhà nước, khuyến khích phát triển các hiệp hội doanh nghiệp tham gia vào các hiệp hội ngành nghề trong khu vực và quốc tế.

***

Tóm lại, phát triển thể chế cần phải theo kịp phát triển kinh tế. Việt Nam đang cạnh tranh với các nước có trình độ phát triển hơn, nhưng lại không có thể chế đặc biệt tốt như các nước đó. Để đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, điều kiện tiên quyết là khôi phục tăng trưởng năng suất. Chương trình nâng cao hiệu quả thể chế sẽ rất thách thức, do sự suy giảm tăng trưởng năng suất đang diễn ra trên diện rộng. Chính vì vậy ưu tiên cải cách số một là phải tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất. Điều này đòi hỏi phải tăng cường nền tảng kinh tế vi mô của nền kinh tế thị trường, cụ thể là bảo hộ quyền tài sản và thực thi các chính sách về cạnh tranh. Sửa chữa những méo mó trên thị trường các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường vốn và đất đai, cũng là yêu cầu quan trọng./. 


TS. Vũ Tiến Lộc
                                                    Phòng Thương mại công và nghiệp Việt Nam


Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết