Thứ Bảy, ngày 07 tháng 12 năm 2024

Phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn và nông dân qua 40 năm đổi mới - thực trạng và những vấn đề đặt ra (Phần 1)

Ngày phát hành: 14/04/2024 Lượt xem 5678

 

1. Đặt vấn đề

 

Trong suốt gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, kết quả hoạt động của nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Quy mô GDP không ngừng tăng, năm 2022 đạt 409tỷ USD tăng 50 lần so với năm 1986 và trở thành nền kinh tế lớn thứ 05 trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 4.110 USD (Tổng cục thống kê, 2023). Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều vấn đề, thách thức và cơ hội mới do tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp; thiên tai, dịch bệnh; sự đứt gẫy các chuỗi cung ứng và các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống.

 

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra những mục tiêu quan trọng và định hướng phát triển quốc gia trong giai đoạn mới. Phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân là một lĩnh vực được đặc biệt quan tâm. Để thực hiện thành công những mục tiêu, định hướng phát triển mà Đại hội Đảng XIII, cho thấy sự cần thiết phải nhìn lại 40 năm đổi mới, đánh giá về những thành tựu đã đạt được, tồn tại, hạn chế cũng như những thách thức và cơ hội mới mà quốc gia đang đối mặt. Từ đó cung cấp thông tin quan trọng và cơ sở khoa học để định hình chính sách, quyết định và hướng dẫn cho các bộ, ngành và cộng đồng liên quan trong việc đưa ra các giải pháp và kiến nghị đối với việc tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

 

Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm (i) Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam; (ii) Xác định những cơ hội và những thách thức trong việc phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân; và (iii) Đề xuất giải pháp và kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân góp phần vào công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, và bảo vệ Tổ Quốc trong giai đoạn mới.

Nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở tổng hợp và phân tích tài liệu bao gồm: các văn bản chính sách gồm Văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Trung ương và Chính phủ, Quyết định của các Bộ, ngành, và các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong nhiệm kỳ đại hội XIII của Đảng cũng như các số liệu báo cáo của Tổng cụ thống kê. Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng để khái quát được bức tranh của nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân nước ta qua thực tiễn gần 40 năm phát triển cũng như gắn các bối cảnh trong thời kỳ mới.

 

2.  Mục tiêu chiến lược, chính sách phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân của Đại hội XIII của Đảng

 

Với tinh thần “Đoàn kết - dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, ý thức trách nhiệm cao trước Đảng, nhân dân và đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu cho nhiệm kỳ 2021 - 2026 như sau:

 

2.1. Mục tiêu tổng quát

 

Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

2.2. Mục tiêu cụ thể

 

- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

 

- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.

 

- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

 

2.3. Chính sách phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân của Đại hội XIII của Đảng

 

Các chính sách phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân của Đại hội XIII của Đảng được cụ thể hoá thông qua các văn bản cụ thể như sau:

 

1) Nghị quyết số 19-NQ-/TW ngày 16-6-2022 “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” gắn với Nghị quyết 18-NQ/TW “về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”; Nghị quyết 20-NQ/TW “về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới” tạo ra một hệ thống chính sách đồng bộ, toàn diện cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; 2) Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 27/2/2023 về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; 3) Quyết định số 417/QÐ-TTg ngày 22/3/2021 phê duyệt "Ðề án phát triển ngành chế biến rau quả giai đoạn 2021-2030; 4) Quyết định số 1658/QÐ-TTg ngày 1/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050; 5) Quyết định số 150/QÐ-TTg ngày 28/1/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; 6) Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; 7) Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 8/3/2022 ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí Quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025; 8) Quyết định số 320/QĐ-TTg ngày 8/3/2022 ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về huyện nông thôn mới, quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí Quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021-2025; 9) Quyết định số 687/QÐ-TTg ngày 7/6/2022 phê duyệt Ðề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam; 10) Quyết định số 858/QÐ-TTg ngày 20/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông, lâm, thủy sản đến năm 2030; 11) Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 14/9/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

 

 

3. Thực trạng phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân qua thực tiễn nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng

 

3.1. Các kết quả đạt được

 

3.1.1. Thành tựu trong phát triển nông nghiệp

 

Đảm bảo an ninh lương thực, góp phần quan trọng ổn định xã hội

 

Kết quả sau gần 40 năm đổi mới, từ một nước thiếu lương thực, đến nay sản lượng lương thực thực phẩm của nước ta không ngừng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo nguồn cung dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục góp phần quan trọng đảm bảo an ninh lương thực trên thế giới với việc hàng năm xuất khẩu nhiều mặt hàng lương thực thực phẩm, trong đó mỗi năm xuất khẩu trên 6 triệu tấn gạo, cung cấp khoảng 12% lượng gạo xuất khẩu trên toàn thế giới.

 

Cơ cấu sản xuất có sự chuyển đổi tích cực

 

Kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 triển khai thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có sự thay đổi rõ rệt theo hướng giảm tỷ lệ trồng trọt, tăng tỷ lệ thủy sản, chăn nuôi và lâm nghiệp. Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước, gắn với nhu cầu thị trường.

 

Chất lượng và giá trị nông sản không ngừng được nâng cao

Nhờ đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi ngành nông nghiệp đã tạo ra các sản phẩm chất lượng và được thị trường thế giới đánh giá cao. Việc tăng cường áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, bền vững đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Diện tích cây trồng được chứng nhận VietGAP năm 2019 đạt 39,22 ngàn ha. Công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản (NLTS) đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm khoảng 8-10% trong giai đoạn 2011-2020, và đạt 2,8 - 3%/năm giai đoạn từ 2021 đến nay, góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nông sản của cả nước (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2021).

 

Thị trường tiêu thụ nông lâm thuỷ sản ngày càng phát triển

 

Nhờ thúc đẩy sản xuất và nỗ lực đàm phán mở rộng thị trường, xuất khẩu NLTS tăng nhanh qua các năm, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng. Nếu như năm 1986, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành chỉ đạt 486 triệu USD, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao kỷ lục trên 53,22 tỷ USD. Trong đó, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, 8 mặt hàng có kim ngạch trên 2 tỷ USD, 7 mặt hàng trên 3 tỷ USD. Nông sản Việt Nam đã xuất khẩu đến trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU,… Phương thức xuất khẩu được đổi mới từ tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch. Các doanh nghiệp nông nghiệp đã chủ động đưa sản phẩm vào sâu hơn chuỗi giá trị toàn cầu. Cán cân thương mại NLTS liên tục xuất siêu (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2021).

Bên cạnh đó, thị trường trong nước cũng phát triển nhanh, hình thành nhiều chuỗi cung ứng nông sản hiện đại. Nhiều sản phẩm NLTS ngoài hình thức tiêu thụ truyền thống cũng đã tham gia vào các chuỗi cung ứng trên các sàn thương mại điện tử.

 

3.1.2. Thành tựu trong phát triển nông thôn

 

Kinh tế nông thôn phát triển nhanh

 

Trong những năm gần đây, kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, chuyển dần sang các hoạt động phi nông nghiệp. Lao động NLTS đã giảm cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lực lượng lao động xã hội. Năm 2006, tỷ lệ lao động NLTS chiếm hơn 70% tổng lực lượng lao động, đến năm 2020 số lao động này giảm xuống còn 17,5 triệu người (chiếm 32,8% lao động xã hội) (Tổng cục thống kê, 2021).

 

Số doanh nghiệp và HTX tăng nhanh, số hộ nông dân ngày càng giảm. Kinh tế nông thôn được phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa những vẫn giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc. Nhiều làng truyền thống đã được công nhận. Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (Chương trình OCOP) ra đời từ 2018, đã được tổ chức triển khai rộng khắp 63 tỉnh phát huy được nhiều sản phẩm lợi thế của địa phương, vai trò cộng đồng. Hệ thống tín dụng, ngân hàng từng bước mở rộng mạng lưới hoạt động ở khu vực nông thôn thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển.

 

Cơ sở hạ tầng nông thôn ngày càng hoàn thiện 

 

Hạ tầng giao thông, điện, nước khu vực nông thôn tiếp tục được ưu tiên phát triển. Công trình công cộng ngày càng hoàn thiện. Nước sạch, điều kiện vệ sinh được cải thiện. Hạ tầng số phát triển có những bước phát triển đáng kể.

 

 

3.1.3. Thành tựu trong phát triển nông dân

 

Nhờ sự phát triển kinh tế nông thôn, sự quan tâm đầu tư của Nhà nước nên đời sống người nông dân đã có sự thay đổi đáng kể.

 

Về sản xuất

Diện tích bình quân 1 hộ tăng thửa tăng từ 1.843,1 m2 lên 2.026,3m2 nhờ công tác dồn điền, đổi thửa. Số lượng máy móc, thiết bị mà người nông dân sử dụng đa dạng ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất với số lượng tăng đáng kể. Vốn tích lũy dành cho tái đầu tư cho sản xuất nông nghiệp của các hộ cũng không ngừng được gia tăng.

 

Về đời sống

 

Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập của người dân đô thị, tăng 3,36 lần từ mức 12,8 triệu năm 2010 lên khoảng 43 triệu đồng/người năm 2020 và tăng gần 1,9 lần so với năm 2015, vượt mục tiêu đề ra đến năm 2020. Chênh lệch thu nhập bình quân của người lao động ở nông thông so với thành thị ngày càng giảm. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5%/năm và đến hết năm 2020 còn 7,1%. Tỷ lệ hộ có mức độ thiếu hụt về các dịch vụ xã hội cơ bản cũng giảm (Tổng cục thống kê, 2021).

 

3.2. Những vấn đề tồn tại trong phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân trong 40 năm đổi mới

 

3.2.1 Tồn tại trong phát triển nông nghiệp

 

Tổ chức sản xuất chậm thay đổi

 

Quy mô sản xuất nhỏ với lợi thế so sánh thấp, trình độ đổi mới sáng tạo công nghệ còn thấp. Xuất khẩu nông sản mới chủ yếu ở dạng thô, giá trị  gia tăng thấp và lợi nhuận thu được không cao. Sản xuất kinh doanh hiện nay chủ yếu tập trung vào việc gia tăng sản lượng mà chưa chú trọng nhiều đến chất lượng của sản phẩm. Do đó, chất lượng sản phẩm thiếu ổn định và chưa đáp ứng kịp những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu tiêu dùng ở thị trường trong nước cũng như quốc tế. Hơn nữa, tính minh bạch và trách nhiệm từ phía người sản xuất còn chưa được chú trọng. Việc sản xuất theo các tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt (GAP) mặc dù đã được đẩy mạnh nhưng tỷ lệ áp dụng còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của khách hàng về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

 

Liên kết theo chuỗi giá trị phát triển chậm

 

Số lượng chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị nông sản khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ đã được hình thành và phát triển bền vững còn chưa nhiều. Vai trò của các doanh nghiệp, HTX trong dẫn dắt chuỗi giá trị còn mờ nhạt do phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay đều là doanh nghiệp quy mô nhỏ, trình độ quản lý, quản trị còn non yếu.

 

Sử dụng tài nguyên không hiệu quả và gây ô nhiễm môi trường

 

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và tập quán canh tác truyền thống, ít chú trọng đến công tác cải tạo đất nên nhiều diện tích đất bị bạc màu, thoái hoá.

 

Tài nguyên nước hiện đang được sử dụng không bền vững. Việt Nam hiện đang đối mặt với nguy cơ không bảo đảm an ninh nguồn nước, do mất cân đối nguồn nước, và hiện tượng ô nhiễm ở các dòng sông.

 

Tình trạng khai thác quá trữ lượng cho phép, sử dụng những phương thức khai thác không còn phù hợp đã làm cho nguồn lợi thủy sản ngày một suy giảm.

 

Công tác xử lý phụ phẩm, chất thải nông nghiệp chưa hiệu quả, gây lãng phí tài nguyên và ảnh hướng tới môi trường.

Sản xuất nông nghiệp cũng được đánh giá là nguồn phát thải khí nhà kính đứng thứ 2 tại Việt Nam, chiếm khoảng 33% tổng lượng phát thải khí nhà kính trong năm 2013 (CIAT & World Bank, 2017).

 

Tiêu chuẩn, giá trị, chất lượng nông sản chưa cao

 

Công tác chọn tạo giống và thị trường giống chậm phát triển. Nguồn giống cây trồng vật nuôi còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Tỷ lệ sản phẩm sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững, chứng nhận quốc tế còn ít, chỉ đạt khoảng 10%. Việt Nam duy trì vị thế nằm trong 3 nước có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhất thế giới về nhiều nông sản nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn nhiều so với đối thủ cạnh tranh. Công nghệ sơ chế, chế biến, bảo quản còn yếu, trình độ cơ giới hóa còn thấp và chưa đồng đều. Tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch của lúa gạo còn từ 10-12% trong khi trung bình các nước chỉ khoảng 6-8%. Tỷ lệ chế biến sâu vẫn chỉ đạt khoảng 40% (Bộ NN&PTNT, 2021).  

 

Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp lớn

 

* Rủi do do thiên tai, dịch bệnh

 

Các hiện tượng thời tiết cực đoan như: hạn hán, nắng nóng kéo dài làm tăng nguy cơ cháy rừng, bão với tần xuất và cường độ ngày càng. Trong khi đó, khả năng thích ứng với BĐKH còn thấp nên thiệt hại do thiên tai hàng năm của ngành nông nghiệp lớn (riêng năm 2016 là 2 tỷ USD). Dịch bệnh còn xảy ra thường xuyên gây thiệt hại lớn đến ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.

 

* Rủi ro về thị trường

 

Sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nguồn giống và vật tư nông nghiệp nhập khẩu từ bên ngoài. Thị trường tiêu thụ cũng phụ thuộc nhiều vào các nước nhập khẩu (Trung Quốc), thiếu chủ động trong thương mại quốc tế. Thị trường xuất khẩu ngày càng khó khăn do phải cạnh tranh với nhiều nước có thế mạnh về nông nghiệp. Công tác phân tích thông tin và dự báo thị trường vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thông tin về các thị trường nước ngoài tiềm năng. Chưa có hệ thống phân tích, dự báo, cảnh báo rủi ro thị trường để thông tin đầy đủ, kịp thời cho DN, người sản xuất.

 

Hạ tầng phục vụ sản xuất kinh doanh nông nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

 

Hệ thống thủy lợi phục vụ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp hiệu quả, công tác duy tu bảo trì kém. Hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vẫn dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp nên tiềm ẩn nhiều rủi ro ô nhiễm. Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển còn nhiều hạn chế, chậm, dàn trải, thiếu đồng bộ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thương mại, logistics, giao thông vận tải ở nhiều vùng nông sản chủ lực còn yếu, không đồng bộ.

 

3.2.2. Tồn tại trong phát triển kinh tế nông thôn

 

Kết nối nông thôn-đô thị chưa chặt chẽ

 

Gắn kết không gian giữa phát triển nông thôn và đô thị chưa hiệu quả. Điều này gây ra sự phát triển không cân đối giữa các khu vực nông thôn và vùng ven đô. Sự thiếu kết nối về hạ tầng giao thông, hạ tầng thông tin cũng gây hạn chế trong kết nối phát triển công nghiệp, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp; gắn kết trong sử dụng lao động; gắn kết về thị trường và tiêu thụ sản phẩm giữa nông thôn và đô thị.

 

Vai trò và sự gắn kết cộng đồng địa phương còn yếu

 

Ở nhiều vùng nông thôn, mức độ gắn kết cộng đồng đang có chiều hướng đi xuống do hệ quả của quá trình di cư lao động từ nông thôn ra thành thị. Vai trò của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên địa phương, đóng góp trong quản lý xã hội còn hạn chế. Các chính sách thu hút doanh nghiệp lớn hay các tổ chức kinh tế tập thể đầu tư ở nông thôn còn chưa hấp dẫn và phát huy hiệu quả.

 

3.2.3. Tồn tại trong phát triển nông dân

 

Nguồn lực sản xuất hạn chế

 

Quy mô đất đai của các hộ nông dân nhỏ lẻ như hiện nay dẫn đến thực trạng sử dụng đất sản xuất bị manh mún, không phù hợp với đòi hỏi sản xuất tập trung, hàng hóa lớn. Đặc biệt, tổng số hộ có diện tích đất nông nghiệp dưới 0,5ha chiếm tới 63% (Tổng cục Thống kê, 2017). Mặt khác, còn nhiều vấn đề còn tồn tại như quy định về hạn điền, quy định về thời gian giao đất, quy định về chuyển đổi mục đích sử dụng đất… chưa thực sự tạo điều kiện cho người nông dân gia tăng được nguồn lực đất đai phục vụ sản xuất hàng hoá lớn (Trần Đức Viên, 2020).

 

Thu nhập từ nông nghiệp thấp, không ổn định nên hộ nông dân chưa có khả năng tích lũy để đầu tư tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế. Chính sách hỗ trợ vốn tín dụng chưa phát huy hiệu quả do chưa thực sự cần thiết đối với hộ nông dân nhỏ lẻ nhưng lại khó tiếp cận đối với các tổ chức kinh tế hợp tác, HTX có thành viên là nông dân.

 

Trình độ dân trí và kỹ năng nghề của nông dân thấp

 

Tỷ lệ nông dân là người già và phụ nữ chiếm tỷ lệ cao. Trình độ dân trí thấp là trở ngại lớn cho tham gia của người nông dân. Họ gặp khó khăn trong việc bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình, e ngại tiếp xúc với các cơ quan nhà nước.

Kỹ năng của lao động ở các hộ nông dân còn thấp và tỷ lệ chưa qua đào tạo cao dẫn đến khó khăn trong tiếp cận các phương thức sản xuất hiện đại, tiếp cận thông tin thị trường.

 

Sự tham gia của nông dân vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội chưa đầy đủ

 

Các hoạt động huy động sự tham gia của người nông dân trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường ở các địa phương còn hạn chế và mang tính hình thức.

Sự tham gia của các hộ nông dân chưa đầy đủ do họ chưa nhận thức và tin tưởng vào tính bền vững của các mô hình sản xuất tập trung quy mô lớn.

 

3.3. Một số bài học rút ra

- Phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân cần thiết phải có sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành, đồng hành cùng các doanh nghiệp và nông dân để cùng tìm hướng đi mới, và các giải pháp khả thi, hiệu quả.

 

- Phát huy vai trò cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới trong đó lấy người dân là trung tâm là một trong những giải pháp then chốt cho phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân.

 

- Khai thác nội lực, huy động ngoại lực và phát huy tiềm năng lợi thế của các địa phương, đặc biệt tiềm năng tài nguyên và con người trong bối cảnh thay đổi kinh tế và hội nhập quốc tế là một trong những điều kiện quan trọng cho phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân bền vững.

 

- Hội nhập chủ động, phát triển kinh tế thị trường gắn với ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 theo hướng đổi mới, sáng tạo và thích ứng linh hoạt là chìa khóa thành công cho phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam trong bối cảnh mới.

 

- Đẩy mạnh không ngừng công tác truyền thông nâng cao nhận thức và đào tạo nâng cao năng lực cho cả các nhà quản lý, doanh nghiệp, người lao động và nông dân trước yêu cầu của thời kỳ mới nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân.

(Còn tiếp)

 

GS.TS. Trần Đức Viên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết