Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Chống tham nhũng có phải là đấu đá phe phái ?

Ngày phát hành: 29/08/2018 Lượt xem 1280

Không phải chỉ những kẻ chống đối, cố tình khoét sâu vào điểm yếu tham nhũng, mà vẫn còn cán bộ, đảng viên hoài nghi tính hiệu lực, hiệu quả của công tác chống tham nhũng hiện nay. Hàng loạt câu hỏi đặt ra như: tại sao từ hàng chục năm trước, Đảng ta đã nhận ra sự nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng của tham nhũng mà chưa có chuyển biến quan trọng nào, thậm chí tình trạng tham nhũng tiếp tục nghiêm trọng hơn? Phải chăng vì trong Đảng có nể nang hay ràng buộc phe phái khiến cho không thể chống được tham nhũng, hoặc vì cố bảo vệ uy tín, sự đoàn kết mà ngại không chống tham nhũng triệt để trong từng vụ việc? phải chăng vì quan chức Việt Nam: cần tham nhũng, muốn tham nhũng, dám tham nhũng và không sợ khi tham nhũng?...
Là một trong những đội quân xung kích bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, những người làm công tác tư tưởng, lý luận đã rất tích cực trong việc tuyên truyền, làm rõ quan điểm của Đảng đối với tham nhũng và những thành tựu trong thực tế đấu tranh chống tham nhũng. Nhưng để cuộc đấu tranh này có hiệu quả, cần có những lập luận không những vững về khoa học, mà cần có sức thuyết phục từ sự cầu thị, nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận sự thật, để đề xuất các giải pháp thực tiễn, khả thi của người làm công tác tư tưởng, lý luận. Điều cần phải thừa nhận là, nếu không có tiến bộ trong thực tế đấu tranh chống tham nhũng, thì dù rất cố gắng, việc đấu tranh tư tưởng của đội ngũ những người làm lý luận, tuyên truyền với những thế lực chống đối, những người có quan điểm sai trái sẽ chỉ có kết quả rất hạn chế.
  Điều này có thể khẳng định từ một số luận điểm như sau:
1.Tham nhũng là hiện tượng đã có từ xa xưa, trong mọi Nhà nước, mọi chế độ chính trị và hiện nay có ở mọi nơi. Không phải vì một đảng mà nảy sinh tham nhũng, cũng không phải chỉ có đa đảng mới có thể diệt trừ được tham nhũng.
Thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới chứng minh đa đảng vẫn nảy sinh tham nhũng, vẫn có thể khó khăn đấu tranh, ngăn chặn tham nhũng. Bằng chứng là nhiều  nước đa đảng, thường xuyên được xếp hàng đầu thế giới về chống tham nhũng thì cũng chưa nước nào đạt được 90 trên 100 điểm tuyệt đối theo thang điểm của Tổ chức minh bạch quốc tế - TI. Ví dụ Newdiland xếp thứ nhất đạt 89 điểm; Đan Mạch xếp thứ hai đạt 88 điểm; Phần Lan thứ 3, Nauy thứ 4, Thụy Sĩ thứ 5 cùng 85 điểm, Thụy Điển thứ 6 với 84 điểm; Canada thứ 7 với 82 điểm, Luxembourg thứ 8 với 82 điểm, Hà Lan thứ 9 với 82 điểm, Anh thứ 10 cùng 82 điểm, Đức thứ 11 với 81 điểm. Như vậy là tham nhũng vẫn hiện diện ở ngay những nước đa đảng được coi là dân chủ và trong sạch nhất. 
 Có kết luận cho rằng, càng dân chủ thì càng ít tham nhũng. Điều này tuy đúng, nhưng cũng chỉ là tương đối. Bằng chứng là Ấn Độ được coi là “ nền dân chủ lớn nhất thế giới” cũng chỉ đứng hàng 84/180 quốc gia với số điểm 40/100. Ngược lại, Cu Ba là quốc gia chỉ duy nhất một đảng, được xếp vào nhóm "ít dân chủ", song năm 2017 được xếp thứ 62 với 47 điểm về chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI, cao hơn Ấn độ và nhiều nước đa đảng ở cả châu Âu và châu Mỹ. Tương tự như vậy, Trung Quốc được xếp thứ 77/180 quốc gia với số điểm 41/100 về tham nhũng. 
Việt Nam là nước một Đảng lãnh đạo, năm 2016 và 2017 đạt 35/100 điểm, được xếp thứ 107/180, cao hơn nhiều quốc gia đa đảng và có nền kinh tế thị trường sớm và lớn hơn Việt Nam. Trong bảng xếp hạng tham nhũng toàn cầu của TI cho thấy, rất nhiều quốc gia đa đảng nhưng vẫn thuộc nhóm có tham nhũng nhiều nhất. Như vậy, yếu tố đảng phái chỉ là một nhân tố góp phần vào nảy sinh tham nhũng và chống tham nhũng. 
Vậy đâu là những nhân tố quan trọng nhất tạo điều kiện nảy sinh và phát triển tham nhũng? Theo tổng kết của các nhà nghiên cứu và các tổ chức chống tham nhũng, đó là: 
-Một hệ thống chính trị và hành chính thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, tạo điều kiện cho người có chức vụ, quyền hạn có thể thu lợi bất chính mà không bị ngăn chặn từ bên trong.
-Một thể chế thiếu minh bạch, dân chủ, tạo ra nhiều “ vùng tối” khiến người dân khó giám sát và tố cáo hành vi tham nhũng.
-Một chính sách không đủ bảo đảm mức sống xứng đáng, nhất là trong môi trường kinh tế thị trường, khiến cho người có chức vụ quyền hạn phải tham nhũng như hành vi bất đắc dĩ. 
-Một hệ thống pháp luật thiếu nghiêm minh, khiến cho người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi tham nhũng mà không sợ bị trừng phạt. 
-Một văn hóa chính trị và công vụ thiếu chú trọng danh dự, liêm sỉ, thiếu đề cao sự trung thực khiến cho kẻ có chức, có quyền không sợ mất danh dự khi tham nhũng.
-Một hệ thống báo chí, truyền thông thiếu dũng khí, không trở thành công cụ hữu hiệu để giám sát, tố cáo hành vi tham nhũng và gây áp lực với đấu tranh chống tham nhũng. 
Bất cứ ở đâu, dù là một đảng hay đa đảng, song còn những nhân tố như trên thì đều có thể là mảnh đất nuôi dưỡng tham nhũng, khó khăn trong đấu tranh chống tham nhũng. 
Có một điểm chung là, ở tất cả các nước dù là đa đảng hay một đảng, nếu thành viên ban lãnh đạo cao cấp của đảng cầm quyền dính líu vào tham nhũng, chắc chắn đảng sẽ mất uy tín, thậm chí mất quyền lãnh đạo. Ở bất cứ đâu, vai trò đảng cầm quyền đều bị thách thức bởi cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Uy tín và vận mệnh của đảng chính trị nói chung, của đảng cầm quyền nói riêng luôn bị đặt trong mối quan hệ tỷ lệ nghịch với nạn tham nhũng trong xã hội. Nói cách khác, chống tham nhũng là thuốc thử cho phẩm chất và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền. Điều này càng đúng đối với Đảng Cộng sản. 
Kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước chuyển đổi, từ một đảng độc quyền tới đa đảng cạnh tranh tự do cho thấy, nếu chưa thiết lập được thể chế kinh tế thị trường vững vàng, thể chế pháp lý chặt chẽ, nền công vụ có kỷ luật thì quá trình chuyển đổi đó càng tạo điều kiện cho tham nhũng nảy nở, phát triển mạnh mẽ, thậm chí thành đại dịch của đất nước (nước Nga đã từng mất hàng chục năm như vậy và hiện nay vẫn còn bị xếp vào nhóm dưới của bảng xếp hạng tham nhũng với thứ hạng 135/180 với 29/100 điểm, thấp hơn khá nhiều so với Việt Nam). Ngược lại, nếu đã thiết lập được những điều kiện trên thì quá trình chuyển đổi,sau đó sẽ êm đẹp hơn, ít tiêu cực và tham nhũng hơn ( ví dụ các nước như Séc, Slovakia, các nước vùng Ban tích của Liên Xô cũ,…). 

Nhìn lại thể chế chính trị và văn hóa của nước ta trong những thập niên vừa qua, nhất là từ khi phát triển kinh tế thị trường, phải thẳng thắn thừa nhận có nhiều khiếm khuyết, tạo điều kiện tham nhũng phát triển, mặc dù điều này đi trái bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Trước hết chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc thiết kế, xây dựng các thể chế pháp lý cho kinh tế thị trường, trong quản lý các dự án, chương trình phát triển của Nhà nước; xây dựng  các cơ chế, giải pháp phòng ngừa và chống tham nhũng. 
 Chúng ta cũng chưa quyết liệt trong đổi mới tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế. Đặc biệt chế độ tiền lương của cán bộ, công chức vẫn còn bị kìm hãm bởi tư duy cũ về công bằng, bình đằng trong phân phối, hưởng thụ, khiến cho tham nhũng trở thành nguồn sống đối với không ít cán bộ, công chức. 
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường, nhiều dự án, chương trình, kế hoạch được triển khai ngay từ đầu đã tạo cơ hội cho tham nhũng. Các khoản hoa hồng, chia chác, tỷ lệ “lại quả”, gửi giá…. gần như đã thành thông lệ giữa các bên A, B. Việc đấu thầu công khai đã trở thành bình phong của sự xắp đặt, sau đó có ăn chia giữa các bên. Có thể nói, tham nhũng dưới nhiều hình thức, nhiều mức độ đã trở thành thói quen của đội ngũ công chức thực hiện chính sách, dự án.
Vì những nguyên nhân chủ yếu đó, theo xếp hạng của Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International) chỉ số cảm nhận tham nhũng ( Coruption perceptions index) của Việt Nam trong nhiều năm luôn ở mức khiêm tốn. Từ 2012 đến 2015 chỉ dừng ở mức 31/100 điểm. Nhờ có những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong chống tham nhũng, năm 2016 CPI tăng được 2 điểm lên đến 33 và 2017 tăng lên đến 35 điểm, xếp thứ 107 trên tổng số 180 quốc gia, vùng lãnh thổ. Như vậy, cho thấy yếu tố quyết định để đánh giá tình trạng tham nhũng chính là sự quyết tâm và biện pháp có hiệu quả của Đảng và Nhà nước, cụ thể là của người đứng đầu Nhà nước. Nếu không có điều này thì dù có thể chế dân chủ hoàn thiện đến mấy cũng không thể triệt tiêu được tham nhũng.
Từ yêu cầu của thời đại và phát triển đất nước, đã đến lúc phải nhận thức rõ hơn về ý nghĩa của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đối với vận mệnh của Đảng ta và hơn thế là với vận mệnh, sự sống còn của chế độ XHCN mà chúng ta đang định hướng xây dựng. 
2. Trong thể chế một đảng cộng sản cầm quyền, để đấu tranh phòng, chống tham nhũng có kết quả, cần quyết tâm và nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt. 
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, có thể tham nhũng sẽ tăng lên nếu những nhân tố trên không được khắc phục; ngược lại có thể tham nhũng sẽ giảm xuống, thậm chí bị hạn chế tối đa nếu đảng khắc phục được những nhân tố trên. Thực tiễn đấu tranh quyết liệt với tham nhũng ở Trung Quốc, trong những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã đưa Trung Quốc vào nhóm xếp hạng tương đối cao về chống tham nhũng. 
Những động thái mạnh mẽ trong đấu tranh chống tham nhũng vừa qua của Đảng, Nhà nước ta được các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực. Tổ chức TowardTransparency ( thuộc TI tại Việt Nam)  khuyến cáo các giải pháp tiếp tục cải thiện chỉ số CPI của Việt Nam như sau: 
Đối với Nhà nước:
- Nâng cao tính hiệu quả trong công tác giám sát của Quốc hội và tính độc lập trong xét xử của các cơ quan tư pháp.
- Đẩy mạnh nỗ lực phòng, chống tham nhũng trong các lĩnh vực người dân thường xuyên phải đối mặt với hối lộ và tham nhũng (cảnh sát, y tế công và giáo dục công).
-   Mở rộng, thiết lập và củng cố cơ chế tham gia hiệu quả để người dân, báo chí và các tổ chức xã hội ngoài Nhà nước tham gia vào quá trình ra quyết định và giám sát các hoạt động quản lý nhà nước.
- Hoàn thiện cơ sở pháp luật về bảo vệ người tố cáo tham nhũng nhằm khuyến khích sự tham gia của người dân và cộng đồng vào công tác phòng, chống tham nhũng.
Đối với Doanh nghiệp: 
- Doanh nghiệp cần chủ động tham gia phòng, chống tham nhũng, xây dựng môi trường kinh doanh liêm chính để doanh nghiệp phát triển bền vững, nâng cao uy tín và tăng lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường năng lực phòng, chống tham nhũng nội bộ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước  bao gồm xây dựng, thực hiện và công bố công khai chương trình phòng, chống tham nhũng của doanh nghiệp trên các trang thông tin điện tử, trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực quốc tế .
Đối với báo chí, các tổ chức xã hội và người dân: 
- Cần chủ động tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng thông qua việc thúc đẩy các sáng kiến minh bạch, liêm chính và trách nhiệm giải trình.
- Thực hiện quyền tiếp cận thông tin và tham gia giám sát việc thực hiện Luật Tiếp cận thông tin 2016.
- Chủ động thực hành liêm chính, tố cáo các vụ việc tham nhũng, hối lộ ở các cấp độ khác nhau, trước hết bằng cách tự trang bị kiến thức và thông tin pháp luật, trong đó có pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Những nỗ lực chống tham nhũng trong hai năm 2016, 2017 của Đảng và Nhà nước, với việc đưa ra truy tố, xét xử những cán bộ cao cấp liên quan tới các vụ việc tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã được quần chúng và đông đảo cán bộ rất vui mừng, tin tưởng, kỳ vọng và ủng hộ. Không phải như một số xuyên tạc, đả kích, lợi dụng gây chia rẽ trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân, đại đa số các tầng lớp nhân dân coi cuộc đấu tranh chống tham nhũng quyết liệt vừa qua là xuất phát từ chính bản chất của Đảng, nhằm tăng cường sự thống nhất, đoàn kết và trong sạch của Đảng. Người dân hiểu rõ, với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mình, trong Đảng Cộng sản Việt Nam có thể có những quan điểm, ý kiến khác nhau giữa các cá nhân, thậm chí giữa một số đảng viên này với một số đảng viên kia trong quá trình tổ chức thực hiện, nhưng chưa bao giờ và không bao giờ được phép tồn tại các phe phái. Do đó đấu tranh chống tham nhũng, có thể động chạm đến bất cứ ai, nhưng không phải là đấu tranh phe phái như thường thấy ở nhiều đảng chính trị khác. 
Hơn thế, cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang diễn ra có kết quả, chứng tỏ rằng Đảng CSVN có đủ năng lực lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. 
Điều đó cho thấy, dù ở Việt Nam chỉ một đảng lãnh đạo, thì không những có thể mà còn có nhiều thuận lợi trong đấu tranh chống tham nhũng. Thuận lợi đó trước hết bắt nguồn từ bản chất vì dân, vì nước của một Đảng Cộng sản trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, được Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; vì có được sự yêu mến, tin tưởng, ủng hộ của nhân dân với Đảng; từ nguyên tắc tổ chức thống nhất, đoàn kết của Đảng. Vấn đề đặt ra là khơi nguồn và phát huy những nhân tố thuận lợi như trên như thế nào? Những khuyến cáo của tổ chức Minh bạch thế giới với mọi quốc gia nói chung, với Việt Nam nói riêng là đúng đắn, dựa trên những nghiên cứu khoa học, khách quan. Ở đây xin nhấn mạnh thêm một số khẳng định: 
Điều đầu tiên phải thừa nhận ở Việt Nam cũng như các nước khác, tham nhũng có thể nảy sinh trong đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành, trong các cơ quan nhà nước và Đảng. Dù mang bản chất vì dân, vì nước, nhưng không phải đảng cộng sản có thể miễn trừ với tham nhũng, nhất là trong phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Do đó phòng ngừa và chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ. Hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa và chống tham nhũng cần phải coi là thường xuyên, luôn cập nhật với thực tiễn phát triển của đất nước, tiếp cận chuẩn mực quốc tế. 
Thứ hai, phải coi phòng ngừa và chống tham nhũng là một trong các mục tiêu của mọi chiến lược, kế hoạch phát triển của đất nước. Nói cách khác, phải gắn mục tiêu mục tiêu phòng ngừa và chống tham nhũng với mục tiêu phát triển; gắn cơ chế, giải pháp phòng ngừa, chống tham nhũng vào cơ chế, giải pháp thi hành chính sách, pháp luật. Hiện nay điều này chưa được quán triệt đầy đủ, nên còn nhiều khe hở, tạo điều kiện cho những người có chức, có quyền, kể cả doanh nghiệp lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng. 
 Phát triển chính phủ điện tử là một giải pháp hữu hiệu cần phải được thúc đẩy.Thực tiễn cho thấy, các quốc gia có trình độ phát triển Chính phủ điện tử cao thì cũng là các quốc gia có môi trường kinh doanh tốt và mức độ tham nhũng thấp ( ví dụ các nước Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Anh, Singapo, Canada….). Trong những năm 2016, 2017 khi Việt Nam cải thiện được chỉ số phát triển Chính phủ điện tử ( trong đó có chỉ số về Dịch vụ công trực tuyến) thì không những nâng cao được chỉ số môi trường kinh doanh (năm 2018 tăng 14 bậc), đồng thời cũng nâng cao được điểm chống tham nhũng (tăng 4 điểm so với 2012-2015).
Cần phải coi cải cách chế độ tiền lương theo hướng công bằng thực chất, không phải là cào bằng, bình quân chủ nghĩa là giải pháp tạo động lực của đội ngũ cán bộ công chức trong khu vực công tận tụy, có trách nhiệm và đạo đức công vụ, tránh xa các hành vi tham nhũng.  
Thứ ba, cần có quyết tâm cao của toàn Đảng, nhất là cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng. Để có được điều này, đòi hỏi Đảng phải  lựa chọn được những người lãnh đạo xứng đáng về năng lực lãnh đạo và phẩm chất đạo đức trong sáng, có quyết tâm cao chống tham nhũng. Thực tiễn ở mọi quốc gia, nhất là những nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo chứng minh rằng, chỉ những người có phẩm chất đạo đức trong sáng, không tham nhũng mới có thể duy trì được các hoạt động chống tham nhũng và xây dựng được văn hóa không tham nhũng. Đã đến lúc phải khẳng định người lãnh đạo quốc gia dứt khoát phải bao gồm các tiêu chuẩn là: không tham nhũng, có quyết tâm chống tham nhũng và có khả năng lãnh đạo chống tham nhũng. 
Nếu thực hiện được các giải pháp như trên thì dù một đảng cầm quyền, Việt Nam vẫn sẽ là quốc gia có thứ hạng cao về không tham nhũng. Những người làm công tác tư tưởng, lý luận không phải cố gắng gánh vác trách nhiệm vượt quá khả năng của mình./



PGS,TS Vũ Hoàng Công
                                                                                    Học viện CTQG Hồ Chí Minh



Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết