Thứ Sáu, ngày 28 tháng 11 năm 2025

Một số góp ý Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng

Ngày phát hành: 28/11/2025 Lượt xem 15

 

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV được chuẩn bị công phu, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nghị quyết của Trung ương khóa XIII và kết quả tổng kết 40 năm đổi mới. Dư thảo có bố cục hợp lý, khoa học, chặt chẽ, chủ đề xuyên suốt, gắn với mục tiêu và tầm nhìn phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Nội dung được trình bày súc tích, có trọng tâm, trọng điểm, vừa mang tính khái quát chiến lược vừa có tính khả thi cao, phù hợp với bối cảnh và yêu cầu thực tiễn, khẳng định tầm nhìn chiến lược, khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Dự thảo thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo nhất quán: phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát triển kinh tế gắn với văn hóa, xã hội và con người; đồng thời bảo đảm quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại trong tình hình mới.

 

 

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tôi xin trân trọng gửi tới Tiểu ban Văn kiện một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện dự thảo Báo cáo Chính trị.

 

I. Một số góp ý về quan điểm chỉ đạo

 

1. Quan điểm chỉ đạo thứ nhất, lần đầu tiên Đảng ta xác định “lý luận về đường lối đổi mới” là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng, thể hiện bước đột phá trong tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và bản lĩnh của Đảng. Lý luận về đường lối đổi mới là tổng thể các quan điểm, tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong kỷ nguyên mới.

 

Lý luận về đường lối đổi mới là sự vận dụng và phát triển sáng tạo, cụ thể hoá các nguyên tắc, các nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn 40 năm đổi mới ở Việt Nam. Do đó, đề nghị xem xét bổ sung từ “bảo vệ” sau từ “Kiên định”, chỉnh lý thành: “Kiên định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…” nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là nhiệm vụ cấp thiết, thường xuyên trong bối cảnh tình hình hiện nay. Cụm từ “lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững” nên được diễn đạt súc tích hơn nhằm nhấn mạnh quan hệ biện chứng giữa ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Sự điều chỉnh này giúp quan điểm nổi bật nguyên tắc nền tảng, xuyên suốt của chỉ đạo chiến lược trong Văn kiện.

 

2. Quan điểm chỉ đạo thứ hai: Có sự bổ sung “bảo vệ môi trường là trung tâm” cùng với với phát triển kinh tế, xã hội trong quan điểm này. Điểm bổ sung này là hợp lý, khi vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở nên quan trọng, cấp thiết, mang tính toàn cầu. Nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường cần được nhấn mạnh hơn vì đây là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, quyết định sự phát triển bền vững.

 

Tuy nhiên, cần thiết bổ sung cụm từ: “chuyển đổi số quốc gia” sau cụm từ: “… đẩy mạnh đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế” nhằm  khẳng định quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị (câu mới thành “… đẩy mạnh đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế…”). Các điều chỉnh này sẽ giúp quan điểm 2 có tính chỉ đạo chiến lược rõ ràng, phù hợp bối cảnh mới.

 

3. Quan điểm chỉ đạo thứ ba: Quan điểm này là nội dung lớn, tích hợp cả động lực tinh thần, văn hoá và động lực thể chế, kinh tế, thực hiện đồng bộ 4 chuyển đổi. Tuy nhiên hiện còn ghép nhiều ý trong một cấu trúc dài, có thể gây loãng trọng tâm. Đề nghị diễn đạt rõ hai nhóm nội dung: (i) khơi dậy động lực tinh thần - văn hoá (yêu nước, khát vọng phát triển, sức mạnh văn hoá và con người); (ii) xây dựng và hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Điều chỉnh như trên giúp quan điểm 3 rõ ràng, dễ tiếp cận và phản ánh đúng xu thế hiện nay.

 

4. Quan điểm chỉ đạo thứ tư: Quan điểm này đã thể hiện đầy đủ mối quan hệ giữa phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nêu rõ hơn vai trò “thế trận lòng dân” là nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

 

Kiến nghị bổ sung cụm từ: “bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa” trước đoạn “chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia…” để bảo đảm thống nhất, lôgic với nội dung đoạn thứ nhất, mục X của dự thảo. Bổ sung nội dung về các “thách thức an ninh phi truyền thống” như an ninh mạng, an ninh năng lượng, biến đổi khí hậu có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển đất nước.

 

5. Quan điểm chỉ đạo thứ năm nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, coi đây là trọng tâm xuyên suốt trong lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cần cân nhắc làm rõ hơn cụm từ “vận hành thông suốt, đồng bộ, hiệu quả tổ chức bộ máy mới”, gắn với yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, đề nghị bổ sung từ “quan liêu” sau cụm từ “tham nhũng, lãng phí, tiêu cực” để hoàn thiện thành “… phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu…”. Thực tiễn lịch sử thế giới và Việt Nam cho thấy, bên cạnh tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác, tình trạng quan liêu và hành vi quan liêu cũng gây tổn hại nghiêm trọng đến hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, xói mòn niềm tin của Nhân dân và thậm chí tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Việc bổ sung và làm rõ các nội dung này sẽ giúp quan điểm chỉ đạo thứ năm mang tính định hướng chiến lược rõ ràng hơn, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

Nhìn chung, năm quan điểm chỉ đạo của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện và nhất quán. Những góp ý trên nhằm giúp các quan điểm trở nên chặt chẽ, mạch lạc hơn, nhấn đúng trọng tâm và phản ánh sâu sắc yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, gia tăng cạnh tranh chiến lược quốc tế và đòi hỏi nâng cao chất lượng quản trị quốc gia.

 

II.  Góp ý về các định hướng phát triển

 

Các góp ý dưới đây tập trung vào những nội dung cốt lõi của các định hướng phát triển được nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị, nhằm làm rõ hơn các mục tiêu, giải pháp và trọng tâm chiến lược, qua đó góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng dự thảo, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

 

2.1  Về phát triển kinh tế

 

Dự thảo đã khẳng định tư duy phát triển mới, tập trung chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động. Trong mô hình này, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, đồng thời cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân.

 

Tuy nhiên, nội dung này cần được nhấn mạnh và cụ thể hơn, đặc biệt về nâng cao năng suất lao động thông qua cải thiện kỹ năng lực lượng lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học, viện nghiên cứu, nâng cao chất lượng thể chế thị trường và hạ tầng số.

 

Dự thảo cũng cần làm rõ định hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động sang mô hình dựa vào chất lượng, hiệu quả và công nghệ, đồng thời nhấn mạnh vai trò của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế tri thức trong phát triển bền vững.

 

Mặc dù tiếp tục kế thừa ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực, song Dự thảo cần thể hiện rõ hơn tính mới của giai đoạn tới. Các đột phá này cần được liên kết chặt chẽ với mục tiêu đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi, minh bạch, thúc đẩy sáng tạo và thu hút đầu tư. Đồng thời, cần giảm gánh nặng về thủ tục hành chính và thuế cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân khởi nghiệp, nhằm khuyến khích đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và góp phần phát triển nhanh và bền vững.

 

Dự thảo cần nhấn mạnh hơn vai trò của phát triển vùng và kinh tế đô thị, bởi đây là một trong những động lực quan trọng nhất để chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đề nghị làm rõ mô hình phát triển vùng theo hướng liên kết, đồng thời bổ sung thể chế điều phối vùng có thực quyền và nguồn lực đầy đủ. Đô thị hóa cần được xác định là chiến lược quốc gia, gắn với phát triển nhà ở xã hội, hệ thống giao thông công cộng, quy hoạch đô thị xanh và đô thị thông minh, nhằm khai thác tối đa tiềm năng kinh tế - xã hội của các vùng và đô thị, đồng thời nâng cao chất lượng sống của người dân.

 

2.2. Về phát triển văn hóa, con người

 

Văn hóa kết tinh sức mạnh của dân tộc, là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, nơi lưu giữ tri thức, kinh nghiệm và những giá trị truyền thống qua nhiều thế hệ. Văn hóa là nền tảng, nguồn lực nội sinh, động lực quan trọng điều tiết sự phát triển bền vững, đồng thời là sức mạnh mềm của quốc gia, dân tộc. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, không chỉ coi văn hóa là nền tảng tinh thần và động lực nội sinh, mà còn khẳng định văn hóa là “sức mạnh mềm” chiến lược, góp phần nâng cao vị thế và bản lĩnh dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

 

Dự thảo đã nêu rõ mục tiêu phát triển văn hóa, nhưng cần làm nổi bật hơn vai trò chiến lược của văn hóa trong phát triển bền vững, góp phần củng cố và phát huy bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và giao thoa văn hóa mạnh mẽ hiện nay. Đồng thời, cần chỉ rõ các giải pháp bảo tồn giá trị truyền thống, kết hợp với đổi mới sáng tạo, nâng cao nhận thức và giá trị sống trong cộng đồng.

 

Cần nhấn mạnh tính cấp thiết của việc phát triển công nghiệp văn hóa có lợi thế, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, nhằm xây dựng và nâng cao sức mạnh mềm của Việt Nam. Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu văn hóa, hỗ trợ doanh nghiệp văn hóa khởi nghiệp, góp phần khẳng định bản sắc dân tộc, chống xâm lăng văn hóa, đồng thời tạo ra sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

 

Làm sâu sắc hơn quan điểm phát triển con người toàn diện, vừa về đức, trí, thể, mỹ, vừa hình thành hệ giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới. Đặc biệt, dự thảo cần bổ sung nội dung phát triển năng lực số, tư duy phản biện, kỹ năng thích ứng và kỹ năng học tập suốt đời, dựa trên nền tảng giáo dục toàn diện, khuyến khích học tập suốt đời và tích hợp chuyển đổi số trong giáo dục. Những nội dung này sẽ trang bị cho người dân năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội bền vững và hội nhập quốc tế.

 

2.3. Về quản lý phát triển xã hội

 

Dự thảo đã nhấn mạnh mục tiêu phát triển bền vững, nhưng cần làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, đảm bảo phát triển hài hòa, cân bằng giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Cần làm rõ định hướng xây dựng hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tích hợp, có khả năng ứng phó linh hoạt với các rủi ro mới như già hóa dân số, tự động hóa công việc, thiên tai và dịch bệnh.

 

Đồng thời, dự thảo cần tiếp tục phát triển lý luận mới về xây dựng xã hội số, quản trị xã hội số và con người số, nhằm chuẩn bị cơ sở khoa học, thể chế và kỹ năng cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Những nội dung này sẽ góp phần nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, bảo đảm an sinh và thúc đẩy sự phát triển bền vững, toàn diện của đất nước.

 

Cần nhấn mạnh hơn tác động chiến lược của già hóa dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc gia trong 20 năm tới (đến 2045). Kiến nghị bổ sung các giải pháp đổi mới chính sách dân số theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ, tận dụng hiệu quả giai đoạn cơ cấu dân số vàng, đồng thời chuẩn bị hệ thống an sinh xã hội cho thời kỳ già hóa. Bên cạnh đó, cần xây dựng và phát triển hệ thống chăm sóc xã hội toàn diện, đảm bảo sức khỏe, phúc lợi và khả năng tham gia tích cực của người cao tuổi, góp phần duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

 

Chỉ rõ các thách thức của hệ thống y tế, bao gồm chênh lệch chất lượng dịch vụ giữa các tuyến, thiếu hụt nhân lực y tế, già hóa dân số và sự xuất hiện của các dịch bệnh mới. Kiến nghị nhấn mạnh phát triển y tế cơ sở, y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe tinh thần, đồng thời thúc đẩy số hóa y tế và xây dựng bảo hiểm y tế bền vững, theo tinh thần Nghị quyết 72-NQ/TW. Các giải pháp này nhằm tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đồng thời củng cố nền tảng y tế quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

 

2.4. Về giáo dục - đào tạo

 

Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đề ra chủ trương xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới là một yêu cầu mới, cấp thiết để phát triển đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước.

 

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh hơn nữa rằng giáo dục - đào tạo là nền tảng phát triển con người, là động lực then chốt của tăng trưởng dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo trong kỷ nguyên phát triển mới. Nâng cao chất lượng giáo dục, tăng năng lực thực hành, tư duy phản biện và phát triển năng lực sáng tạo là nhiệm vụ then chốt để thực hiện mục tiêu xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới.

 

Cần khẳng định rằng mục tiêu quan trọng trước tiên là giáo dục về đạo đức, hình thành nhân cách và rèn luyện sự trung thực cho học sinh, sinh viên. Việc “trồng người” phải bắt đầu từ nền tảng nhân cách, sau đó mới mở rộng sang giáo dục kiến thức và kỹ năng. Quan điểm này nhấn mạnh giáo dục toàn diện, coi đạo đức và nhân cách là cốt lõi, đảm bảo học sinh phát triển hài hòa, có tri thức, kỹ năng và phẩm chất để đóng góp tích cực cho xã hội.

 

Kiến nghị việc bảo đảm công bằng giáo dục, thu hẹp khoảng cách giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn, kiến nghị bổ sung các chính sách đặc thù quan tâm đến giáo dục vùng sâu, vùng xa, nhất là đầu tư cơ sở vật chất trường học, nâng cao chất lượng đội ngũ và chế độ đãi ngộ cho giáo viên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.

Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại, linh hoạt, gắn với nhu cầu của thị trường lao động; tăng cường kết nối, liên thông giữa hệ thống giáo dục nghề nghiệp với cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường lao động, việc làm, đồng thời tích hợp đầy đủ thông tin khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của các cơ sở giáo dục.

Phát triển hệ sinh thái học tập mở cho mọi lứa tuổi, tạo điều kiện để người học tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi; đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, khuyến khích và hỗ trợ người dân tham gia học tập suốt đời, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực thích ứng của lực lượng lao động trong bối cảnh mới.

 

2.5 Về bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu

 

Dự thảo còn tương đối ngắn ở nội dung này. Cần bổ sung, làm rõ quan điểm chỉ đạo “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”, quán triệt sâu sắc yêu cầu kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu như một điều kiện cốt lõi để hướng tới phát triển bền vững. Bảo vệ môi trường phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đặt ngang hàng với mục tiêu tăng trưởng, bởi bất kỳ sự ô nhiễm hay suy thoái môi trường nào cũng sẽ gây tổn thất nghiêm trọng đối với nền kinh tế, chất lượng sống và sức khỏe cộng đồng. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược dài hạn, bảo đảm nền tảng cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước trong tương lai.

 

Kiến nghị dự thảo cần bổ sung và cụ thể hóa hơn định hướng chuyển đổi xanh theo từng ngành, nhất là công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông và năng lượng; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, phát triển thị trường carbon và từng bước hình thành hệ thống tài chính xanh. Cần xác định các giải pháp chiến lược mang tính liên ngành, trong đó tích hợp chặt chẽ các tiêu chí môi trường vào mọi chính sách phát triển kinh tế – xã hội; ưu tiên đầu tư cho công nghệ xanh, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu quả xử lý chất thải và phát triển các mô hình đô thị thông minh, nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Từ góc nhìn thực tiễn, cần bổ sung và nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm cũng như quyền lợi của người dân và doanh nghiệp trong quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái. Việc huy động sự tham gia chủ động của cộng đồng và khu vực tư nhân phải trở thành một trụ cột trong công tác bảo vệ môi trường, gắn với các cơ chế khuyến khích cụ thể để người dân tham gia giám sát, bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái. Đồng thời, cần lồng ghép trách nhiệm bảo vệ môi trường với phát triển sinh kế bền vững, giúp người dân trực tiếp hưởng lợi từ việc gìn giữ tài nguyên thiên nhiên, qua đó tạo động lực xã hội rộng rãi cho mục tiêu phát triển xanh và bền vững.

 

2.6 Tăng cường tính định lượng bằng các chỉ tiêu tổng hợp đo lường minh bạch, đa chiều và khách quan

 

Dự thảo có thể lượng hóa rõ hơn một số mục tiêu đến năm 2030 và 2045, bao gồm: tốc độ tăng năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tỷ lệ đóng góp của kinh tế số vào GDP, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng, mức giảm phát thải khí nhà kính, cùng các chỉ số về đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI).

 

Việc xác định các mục tiêu định lượng cụ thể sẽ giúp theo dõi tiến độ, đánh giá kết quả và nâng cao tính khả thi của chiến lược phát triển. Đồng thời, kiến nghị bổ sung nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng tăng trưởng, như tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP, tỷ lệ lao động có kỹ năng số cơ bản và nâng cao, cùng các chỉ tiêu về công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

 

III. Kết luận

 

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại, mang ý nghĩa quyết định đối với tương lai phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và khó lường, trong nước đang triển khai nhiều quyết sách chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, các văn kiện trình Đại hội XIV không chỉ tổng kết chặng đường phát triển 5 năm qua và xác định mục tiêu, nhiệm vụ cho giai đoạn tới, mà còn định hình tư duy chiến lược, tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI.

 

Báo cáo Chính trị và toàn bộ hệ thống Văn kiện trình Đại hội XIV đã thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng, kết hợp nhuần nhuyễn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trong bối cảnh khu vực và thế giới biến động phức tạp. Dự thảo Báo cáo chính trị lần này thể hiện nhiều điểm mới, mang tính đột phá trong tư duy và nhận thức, phản ánh toàn diện và khái quát sâu sắc những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới; đồng thời tiếp tục góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 

Những góp ý và đề xuất trong bài viết này nhằm bổ sung, làm rõ thêm một số nội dung quan trọng, qua đó góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng./.

 

GS.TS. Đặng Nguyên Anh

Hội đồng Lý luận Trung ương

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết