Thứ Ba, ngày 18 tháng 03 năm 2025

Bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong kỷ nguyên mới: Cơ hội , thách thức và quan điểm, giải pháp của Việt Nam

Ngày phát hành: 16/03/2025 Lượt xem 40

 

 

1. MỞ ĐẦU

 

Nhân loại đang phải đối mặt với khủng hoảng kép do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ước tính của Liên hợp quốc cho thấy dân số trên hành tinh sẽ chạm ngưỡng 9,8 tỷ người vào năm 2050 và sẽ có khoảng 11,2 tỷ người vào cuối thế kỷ XXI. Đến năm 2050, với các mô hình sản xuất và tiêu dùng tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên như hiện nay, sẽ phải cần tới nguồn tài nguyên bằng 3 Trái đất mới đáp ứng được nhu cầu sinh sống của nhân loại. Cùng với đó, ô nhiễm môi trường diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới tác động sức khỏe, đời sống và phát triển kinh tế, an sinh xã hội. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 04/4/2022 cho biết có tới 99% người dân trên Trái đất hiện đang hít thở bầu không khí chất lượng kém.

 

 

Ô nhiễm không khí đã đạt mức báo động ở nhiều nơi đô thị trên thế giới tập trung ở khu vực châu Á, trong đó có Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí sạch (CREA) và Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) khu vực Đông Nam Á công bố, mỗi ngày, chi phí để giải quyết tình trạng ô nhiễm không khí trên thế giới do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã lên tới 8 tỷ USD, tương đương khoảng 3,3% GDP toàn cầu. Bụi mịn nhất là bụi mịn PM 2.5 được cho là nguyên nhân khiến hơn 4,0 triệu người tử vong mỗi năm. Các nguồn ô nhiễm môi trường gia tăng nhanh về số lượng, quy mô và mức độ tác động xấu lên môi trường, làm cho môi trường đất, nước, không khí nhiều nơi bị ô nhiễm.

 

Cùng với đó, biến đổi khí hậu đã và đang tác động mạnh mẽ đến các quốc gia cả về mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao, an ninh toàn cầu; đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống và sự phát triển bền vững của toàn thế giới. Nhiều lãnh thổ, cộng đồng có nguy cơ bị ngập lụt, nhấn chìm. An ninh lương thực, an ninh năng lượng bị đe doạ, thành quả phát triển có nguy cơ bị đẩy lùi. Theo dự báo của Tổ chức Khí tượng thế giới, xu hướng gia tăng số vụ thiên tai và hình thái thời tiết cực đoan sẽ tiếp diễn trong thời gian tới; tần xuất xảy ra các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan, hạn hán ngày càng dày đặc và nghiêm trọng ở nhiều nơi trên thế giới trong 10 năm tới, đặc biệt tại những nước đang phát triển chịu nhiều rủi ro thiên tai.

Tại Việt Nam trong thời gian vừa qua, các các hiện tượng khí hậu cực đoan đã được ghi nhận với cường độ mạnh hơn và tần suất cao hơn, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp, là nguy cơ hiện hữu cho các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng làm tăng rủi ro đối với tài sản, sinh kế và hạ tầng đô thị ở khu vực ven biển, gia tăng ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, tăng nguy cơ lũ, lũ quét và sạt lở đất ở khu vực trung du, miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung.

 

Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2022, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, với tổng thiệt hại ước tính 229.958 tỷ VNĐ (tương đương 10 tỷ USD). Thiệt hại do thiên tai hằng năm gây ra ước tính khoảng 1,5% GDP. Cơn bão Yagi tháng 9 vừa qua đã làm khoảng 400 người chết, mất tích và 1.976 người bị thương, tác động nặng nề cho nhiều người dân tại khu vực thiên tai, nhất là trẻ em, người cao tuổi, đối tượng dễ bị tổn thương với tổng thiệt hại kinh tế ước tính trên 3,3 tỷ USD. Trong tương lai, biến đổi khí hậu sẽ là một trong các tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam. Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả có thể gây tổn thất từ 2% đến 4,5% GDP và thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 tỷ USD trong 10 năm tới.

 

Bên cạnh thách thức, nếu có những giải pháp ứng phó khôn ngoan, biến đổi khí hậu có thể mang lại nhiều cơ hội. Biến đổi khí hậu là cơ hội để thực hiện chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn; phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, công nghiệp xanh và tạo việc làm mới; là cơ hội để chuyển đổi sang nền nông nghiệp thông minh, ứng dụng công nghệ cao, thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững; thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái và bền vững; thu hút nguồn lực tài chính và công nghệ để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

 

 

II. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

 

2.1.Cơ hội và thách thức

 

Việt Nam coi hội nhập, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển kinh tế dựa vào tri thức là cơ hội để thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bao trùm, kiến tạo các động lực mới để phát triển đất nước hóa giải các thách thức, và vươn lên dẫn đầu nếu có những bước đi tiên phong vững chắc. Yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh tế dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, giảm phụ thuộc vào tài nguyên đòi hỏi Việt Nam phải quan tâm, đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp, xu thế phát triển mới như phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các bon thấp để sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên. Một số thách thức và cơ hội đang đặt ra đối với Việt Nam trong BVMT, phát triển kinh tế xanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu trong giai đoạn sắp tới như sau:

 

(1) Xu thế dịch chuyển chính sách trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở các nước trên thế giới đặt ra yêu cầu về môi trường trong thương mại quốc tế, hội nhập ngày càng cao. Xu hướng chuyển đổi số, BVMT, phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ được nhiều quốc gia đặt ưu tiên hàng đầu. Các yêu cầu về BVMT trên bình diện quốc tế ngày càng cao, đòi hỏi Việt Nam phải có những hành động mạnh mẽ hơn để đảm bảo đạt được các yêu cầu, cam kết và nghĩa vụ đã ký kết, thỏa thuận; trong đó có cam kết theo các FTA thế hệ mới, Chương trình nghị sự 2030 với 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu, các cam kết tại Hội nghị COP 26, Nghị quyết số 05/NQ-CP ngày 15/01/2021 phê duyệt chủ trương Việt Nam ủng hộ Cam kết của các nhà Lãnh đạo thế giới về Thiên nhiên nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh về Đa dạng sinh học trong khuôn khổ Khóa họp lần thứ 75 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc;... Điều này vừa là thuận lợi cho công tác quản lý, đồng thời cũng đặt ra những thách thức, áp lực không nhỏ về yêu cầu hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và BVMT, giữ gìn thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Cụ thể như sau:

 

- Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với môi trường, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, khai thác được các tiềm năng du lịch, nông nghiệp để ứng phó với biến đổi khí hậu diễn ra chưa đồng bộ ở các địa phương, chưa tận dụng được lợi thế liên kết vùng, đóng góp của các ngành kinh tế có sử dụng năng lượng sạch chưa cao, dù tỉ trọng các ngành đã có sự thay đổi đáng kể so với trước đây.

 

- Xây dựng thị trường các-bon là vấn đề khá mới mẻ đối với Việt Nam; các cơ quan quản lý còn lúng túng trong việc xác định, xây dựng và thực hiện công tác quản lý đối với hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon trong tương lai để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có thể đầu tư, kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới.

 

(2) Định hướng phát triển bền vững, chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng hướng tới nền kinh tế xanh đặt ra yêu cầu ngày càng cao, cụ thể như sau:

 

- Nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, xây dựng xã hội các bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường v.v. Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn; do đó việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh để thực hiện tăng trưởng xanh là thách thức không nhỏ nếu không có sự trợ giúp về vốn và công nghệ của các nước phát triển có công nghệ cao trên thế giới.

 

- Với hơn 70% dân số ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chính, nhiều vùng nông thôn và khu vực miền núi, sinh kế người dân còn gặp nhiều khó khăn. Phát triển “kinh tế xanh” phải gắn với xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội, đây là thách thức không nhỏ trong lựa chọn chính sách thực hiện kế hoạch hành động xanh.

 

- Thiếu vắng các ngành kinh tế hỗ trợ, giải quyết hậu quả về môi trường, ngành kinh tế thân thiện với môi trường như: công nghệ, dịch vụ BVMT; công nghiệp tái chế; sản xuất năng lượng từ chất thải, năng lượng sạch; hàng hóa, sản phẩm thân thiện với môi trường; nông nghiệp hữu cơ. Hoặc đã có một số lĩnh vực sản xuất thân thiện với môi trường đã được chú ý phát triển những gặp khó khăn về nguồn vốn, đầu ra của sản phẩm thiếu tính ổn định, lợi thế cạnh tranh, lợi nhuận thấp nên vẫn chưa hình thành được những ngành kinh tế đủ mạnh để giải quyết có hiệu quả các vấn đề môi trường hiện nay.

 

(3) Tác động của biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường xuyên biên giới, theo dòng hội nhập kinh tế ngày càng lớn, phức tạp, khó lường hơn so với dự báo, tác động nhiều mặt lên môi trường của Việt Nam, đồng thời đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp. Để đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 là mục tiêu phát triển tất yếu của thế giới, thực hiện chủ yếu thông qua giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế các-bon thấp; cũng là “luật chơi” mới về thương mại, đầu tư toàn cầu đã được xác lập kể từ sau Hội nghị COP26. Để đạt được mục tiêu trên, đòi hỏi Việt Nam phải nắm bắt, tận dụng cơ hội từ thích ứng với biến đổi khí hậu để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế.

 

2.2.Quan điểm, giải pháp của Việt Nam

 

a) về bảo vệ môi trường

 

Bảo vệ môi trường (BVMT) cùng với phát triển kinh tế, ổn định xã hội là ba trụ cột của phát triển bền vững. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “... bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung của phát triển bền vững”; tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, quan điểm này càng được Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh và cụ thể hóa, đó là lấy BVMT sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.

 

Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, BVMT đã khẳng định rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: "Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là cơ sở, tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. ”; "Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng hợp và thống nhất, liên ngành, liên vùng. Vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản". Đối với công tác BVMT, Nghị quyết cũng chỉ rõ: "Môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi trường phải theo phương châm ứng xử hài hoà với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.”.

 

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước thời kỳ 2021-2030 của Việt Nam đã nhấn mạnh: Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất, triển các mô hình kinh tế xanh cho các vùng và khu kinh tế phù hợp với đặc trưng của vùng, bảo đảm các mục tiêu phát triển bền vững.

 

Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp phải dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước. Đặc biệt định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững; tạo động lực để đầu tư tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế xanh. Đây là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức liên quan, được thúc đẩy bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, bền vững.

 

Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo ban hành các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Trong đó, khẳng định một số quan điểm lớn như sau:

 

- Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.

 

- Phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược, là mô hình kinh tế đáp ứng yêu cầu về giải quyết ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; mở ra cơ hội phát triển các mô hình kinh doanh mới, không gian tăng trưởng mới.

 

- Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp phải dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước; là ưu tiên cao nhất trong các quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân. Hạ tầng xanh, hạ tầng số, nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định thành công của tiến trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 nhấn mạnh một số quan điểm về tăng trưởng xanh, đó là:

 

- Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021 - 2030, hệ thống quy hoạch quốc gia, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực.

 

- Tăng trưởng xanh là một phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon trong dài hạn.

 

- Tăng trưởng xanh lấy con người làm trung tâm, giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người trước biến đổi khí hậu; khuyến khích lối sống có trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng và xã hội, định hướng thế hệ tương lai về văn hóa sống xanh, hình thành xã hội văn minh, hiện đại hài hòa với thiên nhiên và môi trường.

 

- Tăng trưởng xanh phải dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước.

 

- Tăng trưởng xanh định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững; tạo động lực để đầu tư tư nhân đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế xanh.

 

- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức liên quan, được thúc đẩy bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, bền vững.

Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam được phê duyệt năm 2022 đã đặt mục tiêu: Phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường hiệu quả, tính gắn kết tuần hoàn giữa các doanh nghiệp và ngành kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu của doanh nghiệp và chuỗi cung ứng trước các cú sốc từ bên ngoài, nhằm góp phần đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

 

 

b) về thích ứng với biến đổi khí hậu

 

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI coi chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn và quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Ứng phó với biến đổi khí hậu phải được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Phải tiến hành đồng thời thích ứng và giảm nhẹ phát thải, trong đó thích ứng với biến đổi khí hậu thì chủ động phòng, tránh thiên tai là trọng tâm.

 

Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 và Kết luận số 81-KL/TW ngày 04/6/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã đề ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó ứng phó với biến đổi khí hậu phải đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển.

 

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những định hướng lớn để phát triển đất nước, ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nội dung quan trọng, bao gồm chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính

 

Thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận của Bộ Chính trị để cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp, đề ra các nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực hiện trong thực tiễn; đồng thời thể chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật.

 

Trong bối cảnh mới, đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, quan điểm ứng phó với biến đổi khí hậu đã được đề ra trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, cụ thể là:

 

a)Thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong các quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân.

 

b) Ứng phó với biến đổi khí hậu được thực hiện trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế; góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, tích cực hội nhập.

 

c) Ứng phó với biến đổi khí hậu là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, của mỗi người dân và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội.

 

d) Triển khai các giải pháp cấp bách giảm mức độ dễ bị tổn thương, tăng cường sức chống chịu trước tác động của biến đổi khí hậu; ưu tiên cao nhất bảo đảm an toàn, sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề; tập trung phát triển hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển dịch năng lượng dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, miền.

 

đ) Tập trung nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển các cơ chế tài chính, thị trường các-bon, thúc đẩy chuyển dịch đầu tư cho phát triển kinh tế ít phát thải; phát huy nguồn lực của Nhà nước thúc đẩy thu hút các nguồn lực của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, nguồn lực quốc tế, đẩy mạnh hợp tác công tư trên cơ sở bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

 

III. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

 

Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong tiến trình hội nhập, tăng cường BVMT, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế tuần hoàn, coi đây là cơ hội để thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bao trùm, kiến tạo các động lực mới để phát triển đất nước hóa giải các thách thức và vươn lên dẫn đầu nếu có những bước đi tiên phong vững chắc. Trong quá trình đó, bài học kinh nghiệm rút ra đó là:

 

(1) Bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, chú trọng chuyển đổi mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phải được coi là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có vai trò đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ và mục tiêu để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển; phải được thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, xã hội, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ.

 

(2) Vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nỗ lực đoàn kết quốc tế và truyền thống văn hóa tốt đẹp, giáo dục, hành vi ứng xử của con người với thiên nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện, đồng thời huy động sự tham gia mạnh mẽ của toàn xã hội, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân; đẩy mạnh hợp tác quốc tế với cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân dựa trên trên tiêu chuẩn đạo đức cao nhất và nguyên tắc công lý, công bằng.

 

(3) Quản lý tài nguyên, BVMT và thích ứng với biến đổi khí hậu phải được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên thực hiện tốt việc cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, cân bằng sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.

 

(4) Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển phù hợp, có chương trình hành động cụ thể, khả thi, huy động được nguồn lực của nhà nước, người dân, doanh nghiệp trong nước và quốc tế; tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội.

 

(5)  Cần phải tận dụng tốt cơ hội để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào kinh tế tri thức; tạo các động lực tăng trưởng mới bên cạnh 3 động lực là thể chế, hạ tầng và nguồn nhân lực; cần phải thực hiện mạnh mẽ chuyển đổi số, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và các thành tựu cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đưa Việt Nam theo con đường “xanh”, hiện thực hoá mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

 

(6) Cần phải tiếp tục quán triệt quan điểm BVMT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong BVMT phải lấy phương châm phòng ngừa là chính. Phải khắc phục ngay tư tưởng chạy theo các lợi ích trước mắt về kinh tế mà hy sinh những lợi ích lâu dài về môi trường. Các chỉ tiêu môi trường phải được sử dụng để đánh giá chất lượng, hiệu quả và tính bền vững trong sự tăng trưởng về kinh tế, xã hội của quốc gia, ngành, lĩnh vực và địa phương. Tiếp tục thúc đẩy phương thức quản lý tổng hợp, tiếp cận dựa trên hệ sinh thái, liên vùng, liên ngành, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, các-bon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu.

 

Lê Công Thành

Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên Môi trường

Nguyễn Hưng Thịnh

Vụ trưởng Vụ Môi trường

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết