Quốc phòng, an ninh là lĩnh vực giữ vị trí, vai trò rất quan trọng, được Đảng ta xác định là “trọng yếu, thường xuyên”. Qua gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lĩnh vực quốc phòng, an ninh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần tạo dựng môi trường “trong ấm, ngoài êm”, hòa bình, ổn định phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng; góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; tạo điều kiện, tiền đề để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Khẳng định mục tiêu, khát vọng phát triển của dân tộc, phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII và trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam[3]. Theo đồng chí Tổng Bí thư: Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại[4]. Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu[5].
Mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là Đại hội XIV của Đảng.
Trước Đại hội XIV của Đảng, tập trung các đột phá: (1) Đẩy mạnh chuyển đổi số tạo sức mạnh của lực lượng sản xuất mới, điểm “đòn bẩy” là Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây (Cloud computing); (2) Triển khai quyết liệt, đồng bộ với những giải pháp hữu hiệu, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, trở thành tự nguyện, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân về chống lãng phí gắn liền với chống tham ô, tham nhũng; (3) Kiện toàn sắp xếp bộ máy tổ chức cán bộ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương với mục tiêu “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ.
1. Nhận thức về những thuận lợi, thời cơ, khó khăn, thách thức trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Từ thực tiễn vận động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước diễn ra thời gian qua, nhất là những năm gần đây, dự báo bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Việt Nam sẽ có những thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh nổi bật sau:
(1) Thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức từ thế giới, khu vực.
Về thuận lợi, thời cơ:
Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng, đồng thời là mục đích của cộng đồng quốc tế và mọi quốc gia. Cạnh tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn dù quyết liệt nhưng đều tránh đối đầu, xung đột trực diện và vẫn có nhu cầu duy trì hòa bình, ổn định để phát triển. Thế giới vẫn tồn tại và tiếp tục nảy sinh nhiều vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống mà không một quốc gia nào có thể tự giải quyết được, đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ để giải quyết nhằm bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc. Mặc dù các cường quốc tiếp tục đóng vai trò chính trong quan hệ quốc tế, nhưng các quốc gia vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam cũng có nhiều cơ hội hơn trong tham gia vào các vấn đề thế giới, khu vực.
Cục diện thế giới tiếp tục vận động theo hướng đa cực, đa trung tâm, Việt Nam có điều kiện để lựa chọn những đối sách phù hợp trong quan hệ quốc tế và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc có sự thay đổi và ngày càng “cân bằng” hơn trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, buộc các nước phải “cân nhắc” hành vi của mình do lo ngại về phản ứng của các nước khác. Chính điều này, ít nhiều mang lại lợi ích cho hòa bình, ổn định của thế giới và khu vực; đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với nhiều đối tác, nhất là các nước lớn, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược để không bị chi phối trong quan hệ quốc tế, giảm sức ép của các nước lớn; kiềm chế, đẩy lùi ý đồ và hành động xâm phạm chủ quyền, an ninh lãnh thổ, thực hiện “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Liên kết kinh tế quốc tế tiếp tục được thúc đẩy, quá trình hình thành các chuỗi cung ứng mới, chuỗi sản xuất mới mở ra cơ hội để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững hơn, tạo điều kiện để củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. Việc làm sâu sắc hơn hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, sẽ mang lại nhiều lợi ích về thị trường, vốn đầu tư, công nghệ phục vụ phát triển bền vững đất nước. Việc thực hiện hiệu quả các FTA đã ký và tiếp tục đàm phán gia nhập các FTA mới, sáng kiến về chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng trong thời gian tới sẽ tạo ra khuôn khổ ổn định cho hợp tác kinh tế, giúp giảm thiểu tác động từ các rủi ro bất định trên thế giới; đồng thời, xác lập vị thế thuận lợi hơn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu từ xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu…qua đó tạo điều kiện để củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quy mô, tốc độ cấp số nhân mà điểm “đòn bẩy” là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây (Cloud computing),… sẽ tạo động lực và sức bật cho nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Nếu tận dụng tốt mặt tích cực của sự phát triển của khoa học công nghệ vào lĩnh vực quốc phòng, an ninh sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào nâng cao sức mạnh tổng hợp của Quân đội, Công an để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương là trung tâm phát triển năng động, có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có vai trò ngày càng quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hợp tác toàn diện và ngày càng chặt chẽ dựa trên những nguyên tắc của Hiến chương ASEAN, đang được các nước lớn coi trọng, đóng vai trò trung tâm trong tăng trưởng kinh tế, bảo đảm môi trường hòa bình và an ninh khu vực.
Về khó khăn, thách thức:
Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp khiến cho môi trường quốc phòng, an ninh biến động hơn. Đặc điểm của môi trường thế giới hiện nay và nhiều năm tới là tính bất định, khó lường tăng lên; bất ổn, biến động, khủng hoảng có thể sẽ diễn ra thường xuyên hơn, khó dự đoán hơn và diễn ra cùng lúc, liên thông, lan tỏa hơn. Theo đó, việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển sẽ khó khăn hơn đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong khi nguồn lực của ta có hạn, nếu không có sự chuẩn bị và phân bổ hợp lý, ta sẽ gặp khó khăn khi phải xử lý nhiều vấn đề quốc phòng, an ninh phát triển cùng lúc.
Các nước, nhất là các nước lớn, vẫn hợp tác, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau ngày càng gay gắt. Đặc biệt, một số nước liên tục tăng ngân sách quốc phòng, hiện đại hóa quân đội với những thế hệ vũ khí mới làm cho chạy đua vũ trang, tăng cường vũ trang ngày càng quyết liệt, đe dọa đến hòa bình, an ninh nhiều khu vực và thế giới[6]. Sự can dự, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn với các không gian chiến lược mới (không gian mạng, không gian vũ trụ, lòng đất, lòng biển...); các loại hình tác chiến mới đặt ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trên thế giới, khu vực và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước, nhất là những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Chính trị cường quyền, trào lưu dân túy, dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bảo hộ ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Tập hợp lực lượng theo phe, khối[7], liên kết, cạnh tranh lợi ích giữa các nước diễn ra phức tạp, đặt các nước khác, nhất là các nước vừa và nhỏ trước nhiều khó khăn, thách thức. Các nước lớn sử dụng vai trò, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để gây sức ép đối với các nước trong khu vực, nhất là trong các tổ chức quốc tế và khu vực mà họ đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt, có sự thỏa hiệp giữa các nước lớn với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của các nước vừa và nhỏ. Thời gian tới, “áp lực chọn bên” đặt ra với các nước, nhất là các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc ứng xử với các nước lớn sẽ gặp khó khăn hơn, đặt ra yêu cầu cao hơn về bản lĩnh, sự tỉnh táo, khéo léo và sáng tạo của Việt Nam.
Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ tiếp tục diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức. Xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine tiếp tục diễn ra căng thẳng, chưa có lối thoát, lôi kéo nhiều nước tham gia; gần đây nhất là xung đột quân sự giữa Israel và Hamas, bất ổn gia tăng tại Trung Đông…. đang tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh khu vực và toàn cầu.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng tạo ra khó khăn, thách thức đối với quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Cuộc cách mạng này không chỉ tạo ra các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, an ninh hiện đại với những tính năng vượt trội, có sức hủy diệt lớn, độ chính xác cao mà còn làm xuất hiện những tư tưởng, học thuyết quân sự, an ninh mới; làm thay đổi cơ bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Cùng với các môi trường tác chiến trên bộ, trên không, trên biển, vũ trụ, không gian mạng đã trở thành môi trường thứ Năm, với sự ra đời của chiến tranh mạng, tác động sâu sắc đến quốc phòng, an ninh của mọi quốc gia. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư[8], nhất là công nghệ thông tin cũng tạo ra những thách thức lớn đối với đảm bảo an ninh quốc gia, đặc biệt là vấn đề tội phạm công nghệ cao, an ninh thông tin, an ninh mạng, trong khi Việt Nam chưa tự chủ hoàn toàn về công nghệ, gây nguy cơ mất chủ quyền an ninh thông tin, ở một góc độ nào đó có thể tạo ra hệ lụy rất nguy hiểm.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tiếp tục có nhiều diễn biến căng thẳng, phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn và nhân tố bất ổn có thể bùng phát thành xung đột, đó là: (1). Các tranh chấp biên giới, lãnh thổ tại khu vực, nhất là tranh chấp biển, đảo trên Biển Đông và Biển Hoa Đông phức tạp hơn, trở thành nguy cơ gây mất ổn định khu vực, ảnh hưởng tới việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải, đe dọa lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực; (2). Tình hình nội trị nhiều nước diễn biến phức tạp, nhân tố chủ nghĩa dân tộc nổi lên tác động đến quyết sách đối nội và đối ngoại của nhiều quốc gia; (3). Các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt hơn trong khi vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để đối phó với các nguy cơ này; (4). Khu vực xuất hiện nhiều cấu trúc hợp tác quốc phòng, an ninh, nhưng thiếu một cơ chế hữu hiệu để ngăn ngừa và xử lý các thách thức an ninh, tranh chấp, xung đột.
Cộng đồng ASEAN đang bị lôi kéo, chia rẽ bởi các nước lớn, các lợi ích dân tộc khác nhau. Trung Quốc đang vươn lên mạnh mẽ, chi phối, ép buộc các nước để định hình trật tự khu vực. Việt Nam - Lào - Campuchia tuy vẫn giữ được quan hệ truyền thống, hữu nghị đặc biệt, nhưng đã bị tác động chia rẽ từ nhiều phía, đối diện với nguy cơ mất ổn định mới về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, có tác động trực tiếp đến Việt Nam.
(2) Thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức trong nước
Về thuận lợi, thời cơ:
Sau 40 năm đổi mới, với thế và lực tích luỹ được đã tạo tiền đề quan trọng để tăng cường quốc phòng, an ninh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”[9]: Năng lực lãnh đạo, cầm quyền và uy tín của Đảng ngày một cao hơn; chính trị - xã hội ổn định; tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước được củng cố, tăng cường gắn liền với quy hoạch tổng thể của quốc gia, của các địa phương; Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; lực lượng dự bị động viên được xây dựng hùng hậu; dân quân tự vệ, lực lượng an ninh cơ sở vững mạnh, rộng khắp, phù hợp với điều kiện từng vùng, miền, địa phương trên cả nước làm nòng cốt trong thực hiện quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; thiết lập thế trận quốc phòng, thế trận an ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng. Các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, an sinh xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện; dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng được tôn trọng; khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố, tăng cường. Thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đối ngoại nói chung, đối ngoại quốc phòng, an ninh nói riêng được triển khai đồng bộ, hiệu quả góp phần xây dựng lòng tin để bạn bè quốc tế hiểu hơn về lịch sử, truyền thống, bản chất của đất nước, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Đảng, Nhà nước tiếp tục nhất quán chính sách quốc phòng “bốn không”; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ luôn kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; sẵn sàng huy động, động viên các nguồn lực từ bên ngoài bảo đảm nhu cầu quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc khi cần thiết.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc). Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài…Đối ngoại quốc phòng cùng với đối ngoại an ninh cũng ngày càng mở rộng, là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của đất nước; đóng góp quan trọng vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam; đã có quan hệ với 162 cơ quan thực thi pháp luật của 64 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã thiết lập quan hệ nhiều mặt với cơ quan thực thi pháp luật của các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tham gia hoạt động trong 52 tổ chức, diễn đàn hợp tác quốc tế đa phương, trong đó có INTERPOL và ASEANAPOL; đàm phán, ký kết trên 150 văn bản hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh, trật tự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Quy mô hợp tác trên tất cả lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ ANTT được nâng lên tầm chiến lược; hình thức, cấp độ hợp tác có nhiều đổi mới, ngày càng đa dạng, phong phú; biện pháp hợp tác được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm nhằm thực hiện chủ trương hợp tác để “tăng cường đối thoại, giảm đối đầu”, nhấn mạnh “điểm tương đồng”, giải tỏa “điểm bất đồng”. Thông qua công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế, lực lượng Công an nhân dân đã tạo được thế trận mới, vững chắc, có tiếng nói quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, nâng cao tiềm lực, vị thế của Công an Việt Nam, góp phần bảo đảm tốt an ninh trật tự và thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới…
Về khó khăn, thách thức
Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn hiện hữu, có mặt còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Đồng thời, xuất hiện các nguy cơ, thách thức mới: (1) Tranh chấp Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, là mối thách thức lớn nhất đối với chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. (2) Chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng ngày càng được các thế lực thù địch, phản động sử dụng rộng rãi để xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia; chi phối, tác động lớn đến Việt Nam. (3) An ninh truyền thống và phi truyền thống còn diễn biến phức tạp; âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự diễn biến phức tạp, khó dự báo và kiểm soát; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, truyền thông... tác động sâu sắc, đa chiều đến môi trường an ninh, trật tự của đất nước ta. (4) Trên một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ: còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định, không loại trừ khả năng xẩy ra bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tăng cường cấu kết với nhau, đẩy mạnh hoạt động đòi ly khai, tự trị và triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đói nghèo, tranh chấp đất đai... để kích động bạo loạn lật đổ, chống phá Đảng, Nhà nước ta. Nhân tố có thể gây biến động, bất lợi từ bên trong như hình thành các tổ chức chính trị đối lập “li khai”, “tự trị”, thúc đẩy “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, phát triển thành bạo loạn vũ trang, can thiệp quân sự, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa là nguy cơ không thể coi thường.
Các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng Việt Nam. Những thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam mà các thế lực thù địch, phản động có thể sử dụng trong thời gian tới như sau: (1). Lợi dụng xu hướng tăng cường đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực để xâm nhập, tác động trực tiếp, mềm, sâu, quyết liệt hơn vào nội bộ Đảng, cơ quan Nhà nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ từng bộ phận của hệ thống chính trị nước ta; (2). Đẩy mạnh tuyên truyền, tán phát các quan điểm sai trái, thù địch chống Đảng, Nhà nước, kích động bất tuân dân sự, “bạo loạn lật đổ”, gây mất ổn định về an ninh chính trị - xã hội hòng tạo cớ can thiệp từ bên ngoài; (3). Nuôi dưỡng, hỗ trợ, chỉ đạo các phần tử cơ hội, chống đối chính trị ở trong nước và các tổ chức, lực lượng phản động ở nước ngoài đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam; (4). Tiếp tục triệt để lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để gây sức ép và chống phá Việt Nam, kích động gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; (5). Tập trung xâm nhập, lôi kéo, chuyển hóa làm cho Quân đội, Công an ta suy yếu, mất sức chiến đấu, tách Quân đội, Công an khỏi sự lãnh đạo của Đảng và tiến tới “phi chính trị hoá” Quân đội, Công an.
Tranh chấp trên Biển Đông sẽ tiếp tục diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa, thách thức lớn và lâu dài đối với chủ quyền và quyền chủ quyền của ta; đồng thời đặt ra những thách thức lớn trong xử lý quan hệ với các nước lớn và giữ vững uy tín của Đảng, chế độ trước nhân dân ngày càng gia tăng. Âm mưu độc chiếm biển Đông và những hành động quyết đoán để kiểm soát, làm chủ vùng biển tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc có thể sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp với các nước trong khu vực và cạnh tranh với các nước lớn. Mỹ tiếp tục can dự vào các nước trong khu vực, lôi kéo các nước đồng minh liên kết chặt chẽ với các nước như Nhật Bản, Ấn Độ, Úc... để tăng cường sự hiện diện, tạo ảnh hưởng và nâng cao vị thế trong khu vực. Do đó, biển Đông có thể là “điểm nóng” nhất, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ. Bên cạnh đó, an ninh nguồn nước tại Tiểu vùng sông Mekong diễn biến ngày càng phức tạp đe dọa sự ổn định của Đồng bằng sông Cửu Long...
2. Định hướng mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Trước những thuận lợi, thời cơ đan xen khó khăn, thách thức trên đây, đòi hỏi phải tiếp tục kiên định quan điểm, đường lối của Đảng trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nhất là Nghị quyết số 44-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đặc biệt, phải quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc những tư tưởng chỉ đạo mang tầm chiến lược trong các bài viết và phát biểu của đồng chí GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian qua về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo định hướng sau đây:
(1) Định hướng mục tiêu
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc mục tiêu Nghị quyết số 44-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, ngày 24/11/2023 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố mất ổn định chính trị từ bên trong, kiên quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập ở trong nước; dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; giữ vững, củng cố môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình khu vực, thế giới.
(2) Định hướng quan điểm chỉ đạo
Một là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh con người, trật tự, kỷ cương, an toàn lành mạnh để xây dựng và phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, là lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc.
Ba là, kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, chiến tranh nhân dân, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cơ chế, quy tắc khu vực. Đồng thời, sẵn sàng tự vệ khi chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc bị xâm phạm; kiên quyết đánh bại mọi hành động xâm lược, bạo loạn.
Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, tranh thủ ngoại lực; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Năm là, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; mở rộng các quan hệ về quốc phòng, an ninh; gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với tất cả các nước, nhất là các nước lớn, đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc; tranh thủ sự ủng hộ quốc tế để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.
Sáu là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm lực lượng nòng cốt, cùng với lực lượng dân quân tự vệ và toàn dân bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.
Bảy là, thường xuyên nắm chắc tình hình, nhận diện, xử trí đúng đắn, kịp thời về đối tác, đối tượng quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược; không để bị bất ngờ trong mọi tình huống.
(3) Định hướng nhiệm vụ, giải pháp
Một là, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp; thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp, Luật Quốc phòng, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia ... cả trong thời bình và thời chiến.
Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, hiện thực hóa mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Tạo đột phá tư duy thời đại trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm “Quốc phú, Binh cường” của dân tộc, tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục... để không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn... Thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo, khoảng cách giữa các vùng, miền; thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội, làm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, không để ai bị bỏ lại phía sau; lấy con người là mục tiêu, là động lực, là chủ thể và đối tượng phuc vụ của sự phát triển. Đánh thức tiềm lực nội sinh của dân tộc; ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới; thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; xây dựng và trọng dụng cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tập trung xây dựng khu vực phòng thủ cấp huyện, cấp tỉnh, quân khu ngày càng vững chắc. Đẩy mạnh thực hiện “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Ba là, phát huy dân chủ, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới. Theo đó, phải tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Quán triệt sâu sắc phương châm: Dựa vào dân, “dân là gốc”, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận lòng dân, lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, công chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no, an toàn của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố, tăng cường lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy.
Bốn là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, trước hết, tập trung xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở bảo đảm cho Quân đội và Công an thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, tác chiến trên không gian mạng; khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển Công an nhân dân đến năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị; ưu tiên hiện đại hóa đến năm 2025 các lực lượng trinh sát kĩ thuật, tình báo, cơ yếu, an ninh, cảnh sát cơ động, kĩ thuật nghiệp vụ, an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao. Đồng thời, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Quân đội với Công an và Dân quân tự vệ tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, nhất là đối ngoại quốc phòng, an ninh, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Thực hiện trường phái ngoại giao “cây tre”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; kiên định về nguyên tắc, mục tiêu chiến lược; linh hoạt về sách lược; tích cực, chủ động ngăn ngừa chiến tranh góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, không để bị động, bất ngờ, không để rơi vào thế cô lập, lệ thuộc, đối đầu; xử lý nhuần nhuyễn, hiệu quả quan hệ giữa đối tác, đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh; phát triển cân bằng các quan hệ đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 09/01/2023 của Bộ Chính trị về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng; Kết luận số 53 KL/TW, ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo...Phát huy mạnh mẽ vai trò “tiên phong” của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
Sáu là, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, dự báo chiến lược, chủ động phòng ngừa và xử lý kịp thời, chính xác các tình huống. Đây là cơ sở để Đảng, Nhà nước hoạch định các chủ trương, chính sách quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Do đó, phải luôn nắm chắc tình hình, phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả những yếu tố bất lợi, nguy cơ gây đột biến, thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống từ cơ sở. Cùng với nghiên cứu, đánh giá, dự báo những vấn đề tác động trực tiếp, gián tiếp đến quốc phòng, an ninh của đất nước, cần chủ động nghiên cứu, nắm vững chiến lược, sách lược của đối tượng, đối tác và chiều hướng phát triển của nó, cũng như các nhân tố có thể dẫn tới những đột biến, bất lợi để xử lý khéo léo, linh hoạt, kịp thời. Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu, dự báo những vấn đề chiến lược mang tính tổng thể, dài hạn về quốc phòng, an ninh, về đối tượng, đối tác; dự kiến được các tình huống chiến lược có thể xảy ra, có đối sách xử lý kịp thời, hiệu quả, không để đất nước bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Thượng tướng, PGS. TS. Nguyễn Văn Thành[1]
Đại tá, PGS.TS. Cao Văn Trọng[2]
[1] Phó Chủ tịch chuyên trách, Hội đồng Lý luận Trung ương
[2] Ban Thư ký khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương
[3] https://nhandan.vn/be-mac-hoi-nghi-trung-uong-10-khoa-xiii-post832253.html
[4] https://dangcongsan.vn/thoi-su/noi-dung-chuyen-de-cua-tong-bi-thu-to-lam-ve-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-682050.html
[5] https://dangcongsan.vn/thoi-su/noi-dung-chuyen-de-cua-tong-bi-thu-to-lam-ve-ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-682050.html
[6] Tổng chi tiêu quân sự toàn cầu tăng 19% trong gần 10 năm qua và sẽ sớm đạt mốc 2.300 tỷ USD.
[7] Về kinh tế: EU, BRICS, G20, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, Tứ giác kim cương Mỹ - Nhật Bản - Ôxtrâylia - Ấn Độ...; về quân sự: NATO , CSTO , AUKUS , Liên minh Nga - Belarus...
[8] Xem Adib Farhadi, Ronald P. Sanders, and Anthony Masys, eds. The Great Power Competition Volume 3: Cyberspace: The Fifth Domain. Springer Nature, 2022.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2016, tr.25.