2. Xác định vai trò của thể chế phát triển nhanh - bền vững
Ngày nay, cả về lý luận và thực tiễn phát triển trên thế giới cho thấy rằng để một đất nước phát triển nhanh - bền vững, lên một trình độ cao, phải dựa trên một thể chế phát triển đồng bộ giữa kinh tế - chính trị - xã hội - môi trường sinh thái. Vai trò của thể chế đối với sự phát triển nhanh - bền vững của đất nước được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
(1) Xác lập nền tảng pháp lý cho cấu trúc và cơ chế vận hành nền chính trị - kinh tế - xã hội của quốc gia; xác lập cơ chế phát triển xã hội và quản lý quản lý phát triển xã hội; xác lập địa vị, vai trò, trách nhiệm, quyền và lợi ích của các chủ thể trong quá trình phát triển, nhất là vai trò của Nhà nước;
(2) Đưa ra đường lối, chiến lược, mô hình, mục tiêu phát triển; xác định hệ giá trị phát triển; định hướng và điều tiết sự phát triển của xã hội phù hợp với yêu cầu và điều kiện khách quan;
(3) Xác lập mô hình và thể chế nhà nước, nền hành chính để thực thi quyền lực chính trị gắn với sự phát triển mọi mặt của xã hội; phòng ngừa và ngăn chặn sự suy thoái, tha hóa của quyền lực;
(4) Tạo lập khung pháp lý và điều kiện để kiến tạo và phát triển năng lực các chủ thể, phát huy đúng vai trò của từng loại chủ thể; liên kết các chủ thể, các nguồn lực, các yếu tố theo những mô hình phát triển có hiệu quả; giúp cho mọi hoạt động của các chủ thể trở nên minh bạch hơn, tin cậy hơn, giảm thiểu các “xung đột” trong quá trình tương tác với nhau;
(5) Tạo lập cơ chế, chính sách huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển; tạo động lực phát triển (động lực tinh thần, động lực pháp lý, động lực lợi ích, động lực đạo đức…), nhất là động lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, động lực cộng hưởng thông qua sự liên kết giữa các chủ thể và các yếu tố; điều tiết hài hòa lợi ích phát triển giữa các chủ thể;
(6) Tạo lập “sân chơi” lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, phù hợp, hiệu quả đối với các chủ thể trong từng lĩnh vực; nhất là đối với các doanh nghiệp.
(7) Tạo lập khung khổ pháp lý phù hợp để hội nhập quốc tế có hiệu quả cao, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; kết nối được các giá trị của dân tộc với các giá trị chung của nhân loại.
(8). Tạo lập và thực thi cơ chế vận hành và kiểm soát thực thi thể chế có hiệu quả; khắc phục, phòng ngừa các rủi ro, tiêu cực.
Trong thể chế phát triển nhanh - bền vững, thể chế chính trị có các vai trò chủ yếu sau:
(i). Xác lập quyền lực chính trị, sử dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, giá trị và mục tiêu của thể chế chính trị; tạo lập đồng thuận xã hội, khơi dậy ý chí và khát vọng phát triển của cả dân tộc, của mỗi chủ thể; xác lập và đảm bảo quyền con người, quyền công dân;
(ii). Xây dựng thể chế nhà nước, bộ máy công quyền tinh gọn, hoạt động minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng thể chế quản lý - quản trị phát triển hiện đại.
(iii). Xác lập chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa; gắn quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội của tất cả các chủ thể (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các đơn vị, cá nhân và người dân);
(iv). Kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng - tha hóa quyền lực, lợi ích nhóm, chủ nghĩa thân hữu;
(v). Quy tụ được lòng người, gắn kết được các giá trị của tất cả các chủ thể trong xã hội trong những định hướng, mục tiêu phát triển chung đúng đắn;
(vi). “Kết nối sức mạnh của dân tộc với với sức mạnh của thời đại”, với những giá trị chung của nhân loại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Thể chế kinh tế có các vai trò chủ yếu sau:
(i). Xác lập chế độ kinh tế; quyền tự do sản xuất kinh doanh, quyền tài sản, lợi ích kinh tế của tất cả các chủ thể; thúc đẩy phát triển các chủ thể kinh tế; phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất phù hợp, hiệu quả.
(ii) Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp, hiệu quả; tạo động lực cho phát triển kinh tế với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 10%/năm trở lên trong nhiều năm) trên nền tảng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
(iii). Xác lập môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, tạo ra “sân chơi” tích cực cho các khu vực kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân tham gia phát triển kinh tế; nhất là các doanh nghiệp.
(iv). Xây dựng định hướng chiến lược, quy hoạch, mô hình tăng trưởng - phát triển theo chiều sâu, phù hợp, hiệu quả;
(v) Huy động và sử dụng có hiệu quả huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn lực, mọi động lực phát triển cho sự phát triển đất nước; đặc biệt là phát triển theo hướng bền vững.
Thể chế xã hội có các vai trò chủ yếu sau:
(i). Tạo lập khung pháp lý và cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các lĩnh vực xã hội (văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ…).
(ii). Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng và bao trùm, đảm bảo đời sống, việc làm, để “không ai bị bỏ lại phía sau”;
(iii). Đảm bảo công bằng, bình đẳng xã hội; nâng cao năng lực tự chủ, tự quản của các tổ chức xã hội, của các cộng đồng dân cư.
(iv). Đảm bảo an ninh con người, an ninh xã hội, trật tự an toàn xã hội;
(v). Đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hóa, xã hội và con người ngày càng toàn diện, đầy đủ, cuộc sống ngày càng hạnh phúc hơn.
Thể chế môi trường sinh thái: có vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa con người, xã hội và tự nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái bền vững cho cuộc sống của con người qua các thế hệ. Đặc biệt chú trọng yêu cầu phát triển xanh, giảm phát thải (sản xuất và tiêu dùng xanh). Ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thể chế hội nhập quốc tế (được tách ra thành một thể chế thành phần độc lập tương đối) có vai trò cơ bản là “kết nối sức mạnh của dân tộc với với sức mạnh của thời đại”, với những giá trị chung của nhân loại; kiến tạo môi trường chiến lược có lợi nhất cho sự phát triển đất nước; tạo nên sức mạnh tổng hợp để đất nước phát triển nhanh - bền vững.
Thể chế phát triển nhanh - bền vững được xây dựng phù hợp, có chất lượng sẽ đảm bảo sự tăng trưởng - phát triển với tốc độ cao; đồng bộ giữa các lĩnh vực, không ngừng làm tăng nội lực và năng lực độc lập - tự chủ của quốc gia. Đảm bảo tính bền vững trong quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với môi trường thế giới có nhiều những biến động đột biến, khó lường.
3. Khái quát định hướng các giải pháp xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững
(i) - Cần nhận thức rõ tính hệ thống, đồng bộ, phù hợp, hiệu quả trong nhận thức, xây dựng và thực thi thể chế phát triển nhanh - bền vững.
Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được các mục tiêu rất cao này, đất nước cấp thiết phải chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, vào nguồn lực con người chất lượng cao, trình độ cao. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững, trong đó bảo đảm sự đồng bộ giữa thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái, và thể chế hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh yêu cầu phát triển nhanh, hội nhập với môi trường quốc tế có nhiều biến động phức tạp, khó lường, có nhiều cơ hội lớn gắn liền với những thách thức không nhỏ, đặt ra yêu cầu xây dựng thể chế phát triển nhằm phát huy cao nhất các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời phải đáp ứng các xu thế phát triển khách quan trên thế giới.
Phải đảm bảo mối quan hệ biện chứng trong thể chế phát triển là: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm tạo động lực lợi ích; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò đảm bảo sự phát triển hài hòa với tự nhiên, thể chế hội nhập quốc tế đóng vai trò kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Thể chế phát triển được xây dựng phù hợp, đồng bộ sẽ tạo được mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới - ổn định - phát triển; tạo động lực cho đất nước phát triển nhanh - bền vững; trong đó phát triển là mục tiêu, đổi mới là động lực, ổn định là điều kiện. Cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển là “mối quan hệ động”, được xác định phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển cụ thể, trong từng lĩnh vực cụ thể, trong mỗi giai đoạn phát triển.
(ii) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị
Trong bối cảnh mới, với sự thay đổi, phát triển mang tính đột biến, phức tạp, khó lường của các lĩnh vực trên thế giới, nhất là dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; thể chế chính trị (trước hết thể hiện ở vai trò lãnh đạo - cầm quyền của Đảng) đòi hỏi phải đổi mới có “tính vượt trước”, tính định hướng dẫn đường, thể hiện ở nắm bắt xu thể phát triển của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững. Đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo - cầm quyền tiền phong của Đảng đối với hệ thống chính trị; nâng cao năng lực định hướng và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, năng lực dự báo và điều chỉnh chiến lược phát triển; xác định, xây dựng, thực thi, bảo vệ và tôn vinh các giá trị con người, giá trị công dân, giá trị xã hội, giá trị cộng đồng, giá trị dân tộc; nhất là các giá trị dân chủ, sáng tạo, trách nhiệm xã hội, đáp ứng với yêu cầu phát triển mới. Đây là động lực nội sinh cốt lõi của sự phát triển bền vững. Trên cơ sở xác định rõ và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, triển khai xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hoàn thiện và thực hiện hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ.
Về Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo - cầm quyền, định hướng chiến lược phát triển, thật sự là lực lượng tiêu biểu về “trí tuệ, đạo đức, văn minh” (Hồ Chí Minh), đây là nhân tố quyết định trong việc lãnh đạo xây dựng và thực thi có hiệu lực, hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững. Phải đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo - cầm quyền đối với Nhà nước; hoàn thiện thể chế để Đảng thực hiện tốt vai trò và sứ mệnh đã được nêu trong Cương lĩnh của Đảng và hiến định trong Hiến pháp 2013:“Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc…, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo hệ thống chính trị, nhất là lãnh đạo - cầm quyền đối với Nhà nước pháp quyền (phù hợp với từng nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp).
Tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ trong đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách, nhất là đối với các cán bộ cao cấp, những người đứng đầu. Dân chủ trong Đảng phải trở thành biểu tượng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội. Đồng thời phải hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn đồng bộ với thể chế kiểm soát quyền lực trong hệ thống Nhà nước và từ xã hội, từ nhân dân.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, thực sự là “công bộc của dân”, gắn bó với nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích quốc gia - dân tộc cao hơn lợi ích cá nhân, có đủ phẩm chất và năng lực thực thi có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Về Nhà nước: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN - nhà nước quản lý - quản trị kiến tạo phát triển thực sự “của dân, do dân, vì dân”, “thượng tôn pháp luật”, với bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả. Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa quyền lực, “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan liêu, xa dân. Xây dựng nền hành chính công khai, minh bạch, “liêm chính - kỷ cương - hành động - sáng tạo - hiệu quả”. Nâng cao năng lực xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách, năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện; nâng cao năng lực “phản ứng” chính sách trong bối cảnh biến đổi phức tạp và nhanh chóng của thể giới, khu vực.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình, cấu trúc hệ thống tổ chức, bộ máy nhà nước pháp quyền phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới; trong đó thể hiện rõ các nguyên tắc tập trung thống nhất, phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cấp; vừa đảm bảo có hiệu quả vai trò quản lý thống nhất của trung ương, vừa phát huy cao vai trò tự chủ, tự quản của các cấp chính quyền cấp dưới.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền; xây dựng hệ thống chính quyền từ trung ương xuống cơ sở (cả nông thôn và thành thị) theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “thực đức - thực tài”, thực sự là “công bộc của dân”.
(iii) - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam, theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế
- Để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế, phải kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn, mút thắt, mâu thuẫn, không phù hợp, không đồng bộ, trong hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện về kinh tế; đồng thời, phải đẩy nhanh xây dựng và hoàn thiện đồng bộ pháp luật, cơ chế, chính sách mới đáp ứng với yêu cầu phát triển nhanh trên nền tảng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; tận dụng có hiệu quả các cơ hội lớn tạo ra từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, các mô hình và phương thức sản xuất kinh doanh mới, gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, hiệu quả, hội nhập quốc tế.
- Hoàn thiện thể chế về mối quan hệ giữa nhà nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - xã hội (doanh nghiệp và người dân) năng động, sáng tạo”; nhằm tạo sự cộng hưởng phát huy những mặt mạnh của Nhà nước, thị trường và xã hội; đồng thời hạn chế, khắc phục những bất cập, “thất bại” của cả Nhà nước, thị trường và xã hội, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhà nước mạnh không phải là Nhà nước “to” về bộ máy, đông về đội ngũ công chức; mà phải là một Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển, quản trị phát triển, có chiến lược phát triển đúng đắn, mạnh về xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, mạnh về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức; mạnh về quản lý vĩ mô, về năng lực quản lý, quản trị phát triển, mạnh về năng lực phản ứng chính sách trước những biến đổi của môi trường phát triển…
- Hoàn thiện thể chế để nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô, đây là yêu cầu rất quan trọng gắn liền với giữ vững ồn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng và thực thi có hiệu quả chiến lược, mô hình, cơ chế, chính sách chuyển đổi sang phát triển theo chiều sâu (chung của cả nền kinh tế và riêng từng ngành, lĩnh vực). Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu đầu tư (nhất là thể chế đầu tư công), tái cơ cấu nền tài chính - tín dụng theo hướng công khai, minh bạch, nâng cao tính cạnh tranh, nâng cao chế độ trách nhiệm, giảm tối đa các thủ tục hành chính.
- Hoàn thiện thể chế để thúc đẩy phát triển đồng bộ, hiệu quả các khu vực, thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập thể, FDI…), nhằm phát huy cao vai trò khách quan của từng khu vực, chủ thể. Xây dựng thể chế kết nối các thành phần kinh tế (vốn đang có rất ít kết nối với nhau), trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc. Nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài. Điều chỉnh định hướng, chiến lược và cơ chế chính sách thu hút FDI để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chiều sâu, cả về quy mô và chất lượng, trở thành một lực lượng trọng yếu phát triển đất nước.
- Hoàn thiện thể chế để đấy mạnh quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội để kịp thời đón nhận phát triển các phương thức, mô hình sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain…). Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm tạo động lực đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ mới, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng phù hợp, có hiệu quả vào trong sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; tạo động lực cốt lõi cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, phát triển xanh, bền vững.
- Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế sở hữu, trong đó có thể chế về sở hữu trí tuệ, thể chế đất đai, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực cho phát triển. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro…để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững; tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.
(iv) - Đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế phát triển xã hội
Hoàn thiện thể chế và thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, tập trung vào những nội dung sau:
- Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển các lĩnh vực văn hóa (xây dựng và thực thi có hiệu quả các hệ giá trị: con người, gia đình, văn hóa, xã hội, quốc gia - dân tộc; phát triển công nghiệp văn hóa…); Đẩy mạnh phát triển toàn diện, đồng bộ, hiệu quả lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe (tập trung vào hoàn thiện hệ thống y tế bao trùm, hiệu quả; hệ thống chính sách khám chữa bệnh phù hợp gắn liền với phát triển hệ thống bảo hiểm y tế bao trùm, bền vững…).
- Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục - đào tạo (tập trung vào nâng cao chất lượng phát triển con người, phẩm chất và năng lực, nhất là năng lực sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao…).
- Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, để tạo động lực then chốt, chủ yếu cho sự phát triển nhanh - bền vững đất nước.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự phân phối, điều tiết tương đối hài hòa cơ hội phát triển, thành quả, lợi ích phát triển giữa các tầng lớp xã hội, giữa các khu vực; hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững; hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội, “không để ai tụt lại phía sau”.
- Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để phát huy cao độ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư, trong việc tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước và trong hoạt động “tư chủ - tự quản” theo pháp luật, vì lợi ích của các thành viên. Thực hiện có hiệu quả dân chủ xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở; xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các tổ chức Đảng và Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách để phát triển và nâng cao năng lực tự chủ - tự quản của các cộng đồng dân cư.
- Thực hiện có hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhân dân; các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, các càn bộ và đảng viên phải thực thi nghiêm túc trách nhiệm giải trình trước nhân dân; xử lý nghiêm, công khai, minh bạch các vi phạm pháp luật, để nâng cao lòng tin của nhân dân, sự đồng thuận xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển con người và xã hội lành mạnh, an toàn, hạn chế các tác động tiêu cực của các mạng xã hội, mặt trái của các ứng dụng công nghệ hiện đại.
(v) - Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, lại là một trong những nước chịu sự tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu, do đó vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái là một nội dung hữu cơ, trọng yếu của phát triển nhanh - bền vững. Phải quán triệt và thực thi nghiêm túc quan điểm “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; xác định vấn đề bảo vệ và sử dụng có hiệu quả, bền vững các tài nguyên của đất nước là một nội dung quan trọng của an ninh quốc gia. Cần đặc biệt quan tâm đến xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, an ninh năng lượng quốc gia.
Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng và phát triển bền vững (hướng tới xây dựng và phát triển nền kinh tế xanh, sử dụng năng lượng xanh, sản xuất xanh và tiêu dùng xanh). Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị và ở nông thôn. Triển khai đánh giá toàn diện thực trạng và xu hướng biến đổi môi trường sinh thái của từng vùng dưới tác động của biến đổi khí hậu; trên cơ sở đó xây dựng chiến lược và thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để ứng phó có hiệu quả, bền vững cả trong sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường sinh thái ở các địa phương, trong từng lĩnh vực; phấn đấu hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
(vi) - Tiếp tục hoàn thiện thể chế hội nhập quốc tế để đưa quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, hiệu quả hơn trong tất cả các lĩnh vực
Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế phù hợp, hiệu quả trong giai đoạn mới (chung và cụ thể cho từng lĩnh vực). Trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến rất phức tạp, nhiều biến động khó lường, đòi hỏi phải chủ động điều chỉnh kịp thời chiến lược và cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa có tầm nhìn dài hạn, vừa ứng phó có hiệu quả, giảm tác động tiêu cực đối với sự phát triển của đất nước; có những đối sách để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Chủ động tham gia kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước; đẩy mạnh tham gia vào các quan hệ đa phương và song phương; tham gia vào các chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và các giải pháp để thực hiện có hiệu quả các hiệp định và cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
(vii) - Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của tất cả các chủ thể
Xây dựng thể chế phát triển có chất lượng và thực thi hiệu quả đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp và cơ chế, chính sách đề nâng cao năng lực của tất cả các chủ thể, gắn với yêu cầu phát triển theo chiều sâu (như năng lực ban hành thể chế, lãnh đạo triển khai tổ chức thực hiện thể chế, năng lực thực thi thể chế…). Phải chế định các cơ chế và thiết chế thực thi thể chế nghiêm túc, “nói đi đôi với làm”, “thượng tôn pháp luật”. Sự đồng bộ giữa ban hành và thực thi thể chế đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của tất các chủ thể, từ người lao động đến tầng lớp lãnh đạo các cấp. Chất lượng của thể chế và hiệu lực, hiệu quả thực thi thể chế của tất cả các chủ thể là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới tư duy phát triển và xây dựng thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển phải đồng thời thực hiện cả hai quá trình: quá trình kiên quyết “cởi trói”, tháo gỡ các nút thắt, mâu thuẫn, “điểm nghẽn” đang còn rất nặng nề và khá phổ biến, trong đó “nút thắt về thể chế là nút thắt của các nút thắt”, như Tổng bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ; đồng thời phải khẩn trương xây dựng đồng bộ thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đáp ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thể chế phát triển nhanh - bền vững đồng bộ về chính trị, kinh tế, xã hội, và môi trường sinh thái cần được xây dựng phù hợp, trong đó kết nối hữu cơ ba nhân tố chủ yếu “con người - thể chế - công nghệ hiện đại”, sẽ tạo thành cỗ xe Tam Mã với động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta bước vào “kỷ nguyên vươn mình”, cất cánh để “đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
(Hết)
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp