Thứ Ba, ngày 02 tháng 09 năm 2025

80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng

Ngày phát hành: 26/08/2025 Lượt xem 160


Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, mở ra con đường phát triển mới. Trong 80 năm qua, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nền kinh tế năng động trong khu vực, có vị thế trên trường quốc tế. Thành tựu kinh tế trong 8 thập kỷ qua không chỉ là sự thay đổi về con số GDP, thu nhập hay thương mại quốc tế, mà còn phản ánh sức sống, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, minh chứng cho tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước và sự đoàn kết, sáng tạo của nhân dân.



Vừa sản xuất, vừa chiến đấu

 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, ngay sau khi giành được độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn: ngân khố trống rỗng, hơn 90% dân số mù chữ, hậu quả nặng nề của nạn đói làm 2 triệu đồng bào thiệt mạng. Trong bối cảnh đó, một yêu cầu tất yếu được đặt ra: muốn giữ vững độc lập, phải đảm bảo lương thực, vũ khí và hậu cần cho kháng chiến. Kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế thời chiến, được xây dựng theo hướng tự lực cánh sinh, gắn với phương châm: vừa sản xuất, vừa chiến đấu; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài đã được cụ thể hóa bằng những biện pháp kinh tế quyết liệt. Nhân dân ta thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, sẵn sàng phá cầu, cắt đường, sơ tán nhà xưởng để ngăn chặn bước tiến của quân thù, đồng thời dồn sức xây dựng căn cứ địa. Ở chiến khu Việt Bắc, nông dân “tay cày, tay súng” vừa sản xuất lương thực, vừa đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Những xưởng quân giới sơ khai ra đời, dù sản xuất vũ khí thô sơ nhưng kịp thời đáp ứng nhu cầu chiến đấu. Phong trào tăng gia sản xuất lan rộng khắp nơi, khơi dậy tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Nhờ đó, dù điều kiện vô cùng gian khổ, nền kinh tế kháng chiến vẫn đảm bảo được hậu cần cho các chiến dịch lớn, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.


Sau Hiệp định Geneve, đất nước tạm thời bị chia cắt, miền Bắc trở thành hậu phương lớn của cả nước, vừa xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, vừa chi viện cho miền Nam. Cải cách ruộng đất rồi hợp tác hóa nông nghiệp đã góp phần giải quyết vấn đề đất đai, từng bước cải thiện đời sống nông dân, củng cố khối liên minh công-nông. Công nghiệp quốc doanh được xây dựng với sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, đánh dấu sự ra đời của những công trình công nghiệp quan trọng, như: Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy điện Uông Bí… Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, tinh thần “tay búa, tay súng” lan rộng khắp nơi: công nhân vừa sản xuất, vừa trực tiếp cầm súng bảo vệ nhà máy; giao thông bị đánh phá thì lập tức được khôi phục để bảo đảm mạch máu vận tải. Song song với đó, miền Nam trong bom đạn cũng tổ chức lực lượng sản xuất tại chỗ, hình thành hậu cần ngay trong rừng núi, căn cứ cách mạng, vừa nuôi quân vừa giữ đất, làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh.


Trên con đường Trường Sơn huyền thoại, dòng người và dòng hàng hóa không ngừng chảy vào miền Nam. Đường Hồ Chí Minh không chỉ là tuyến chi viện quân sự mà còn là con đường lương thực, là biểu tượng của ý chí sắt đá và sức mạnh hậu cần của dân tộc. Những đoàn dân công hỏa tuyến, những đội thanh niên xung phong, những “đội quân tóc dài” ở Nam Bộ… đều là hình ảnh tiêu biểu của sự hòa quyện giữa sản xuất và chiến đấu. Trong bom đạn ác liệt, người dân vẫn vững tay cày, tay súng; những cánh đồng lúa ngô vẫn xanh mướt; những chuyến hàng vẫn kịp thời ra chiến trường.
Có thể nói, nền kinh tế thời chiến tuy còn tự cung tự cấp, trình độ sản xuất thấp, nhưng đã phát huy đến mức cao nhất tinh thần tự lực, tự cường, đặt nền móng cho công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa sau này. Chính trong khói lửa chiến tranh, Việt Nam đã hình thành một đội ngũ cán bộ kinh tế, công nhân kỹ thuật có bản lĩnh, từng bước tạo dựng cơ sở vật chất cho đất nước. Quan trọng hơn, mô hình “vừa sản xuất, vừa chiến đấu” đã khẳng định chân lý: kinh tế là hậu phương, là nền tảng vật chất vững chắc bảo đảm thắng lợi quân sự, là nguồn sức mạnh để dân tộc trường kỳ kháng chiến, đi tới thống nhất đất nước.



 

Đổi mới - bước ngoặt lịch sử đưa kinh tế phát triển mạnh mẽ

 
Sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế trong bối cảnh hậu chiến nặng nề. Nhiều thành phố, làng mạc bị tàn phá, cơ sở hạ tầng gần như kiệt quệ, lại thêm sự bao vây, cấm vận. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tuy có tác dụng trong kháng chiến, nhưng trong điều kiện hòa bình lại bộc lộ những hạn chế. Năng suất lao động thấp, sản xuất trì trệ, hàng hóa khan hiếm, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Thực tiễn ấy đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy phát triển kinh tế, tìm kiếm một mô hình phù hợp để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và từng bước đi lên.


Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã mở ra một bước ngoặt lịch sử - khởi xướng đường lối Đổi mới toàn diện, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế. Theo đó, Việt Nam chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính quyết sách chiến lược ấy đã mở cánh cửa hội nhập, giải phóng sức sản xuất, tạo nên động lực to lớn cho tăng trưởng. Từ đó, Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, đạt được những bước tiến dài.


Tăng trưởng kinh tế trở thành minh chứng rõ nét nhất cho sức sống và tiềm lực của đất nước. Trong nhiều năm liên tiếp, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ổn định ở mức trung bình 6-7%/năm, bất chấp những biến động lớn của kinh tế toàn cầu. Ngay cả trong những giai đoạn thử thách như cuộc khủng hoảng tài chính 2008 hay đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt Nam vẫn chứng tỏ khả năng phục hồi nhanh chóng. GDP năm 2024 đạt 7,09%, đưa Việt Nam vào nhóm số ít quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu trong khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đã tiến gần mốc 500 tỷ USD, gấp gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ 4 Đông Nam Á và thứ 34 toàn cầu. Bước sang năm 2025, đà tăng trưởng tiếp tục được duy trì ấn tượng với GDP 6 tháng đầu năm đạt 7,52%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Nếu như năm 1989, GDP bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 100 USD thì đến năm 2024, con số này đã đạt mức 4.700 USD. Những con số này không chỉ phản ánh sự ổn định vĩ mô, mà còn cho thấy khát vọng phát triển ngày càng mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhiều năm liền đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu châu Á, củng cố niềm tin về khả năng hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.


Trong nông nghiệp, từ chỗ thiếu đói, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, đồng thời khẳng định vị thế với nhiều nông sản chủ lực, như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều, trái cây nhiệt đới. Những năm gần đây, giá trị xuất khẩu nông-lâm-thủy sản liên tục tăng mạnh và đạt các mốc kỷ lục mới, đặc biệt năm 2024 đạt 62,5 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023 và cao nhất từ trước đến nay. Qua đó góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung và cải thiện đời sống hàng chục triệu nông dân. Cùng với phát triển nông nghiệp, chương trình xây dựng nông thôn mới làm thay đổi căn bản diện mạo làng quê, thu nhập cư dân nông thôn tăng mạnh, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Nông nghiệp không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một trong những trụ cột đưa Việt Nam hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.


Nếu như nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế thì công nghiệp-xây dựng giữ vai trò đầu tàu trong quá trình hiện đại hóa đất nước. Từ chỗ nhỏ bé, manh mún, đến nay Việt Nam đã hình thành nhiều ngành sản xuất mũi nhọn, như: dệt may, da giày, điện tử, sản xuất ô tô, điện thoại di động. Công nghiệp chế biến, chế tạo vươn lên trở thành động lực chính của tăng trưởng, trong khi lĩnh vực xây dựng phát triển mạnh mẽ với hệ thống hạ tầng ngày càng hiện đại. Tính chung, khu vực công nghiệp-xây dựng hiện đóng góp 38% GDP, phản ánh sự chuyển dịch sâu sắc trong cơ cấu kinh tế. Việt Nam đã trở thành trung tâm sản xuất lớn của khu vực, là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu của nhiều tập đoàn như Samsung, LG, Intel, Foxconn. Hàng trăm khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế ven biển được xây dựng hiện đại, tạo diện mạo mới cho đất nước và khẳng định bước tiến dài trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Thương mại-dịch vụ ngày càng khẳng định vai trò mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Nếu như trước đổi mới, dịch vụ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ thì nay đã trở thành một trong ba trụ cột chính của nền kinh tế, đóng góp gần 42% GDP. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều đối tác lớn trên thế giới. Đặc biệt, việc tham gia các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Vương quốc Anh (UKVFTA) đã mở ra không gian hợp tác rộng lớn, giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận thuận lợi các thị trường hàng đầu ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á-Thái Bình Dương. Nhờ đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng, năm 2024 đạt hơn 807 tỷ USD, xuất siêu gần 25 tỷ USD - năm thứ 9 xuất siêu liên tiếp. Cùng với đó, ngành du lịch cũng bứt phá mạnh mẽ, riêng năm 2024 đón trên 17,5 triệu lượt khách quốc tế, khẳng định Việt Nam là điểm đến hấp dẫn hàng đầu khu vực. Với quy mô thị trường trên 100 triệu dân và tầng lớp trung lưu tăng nhanh, thương mại-dịch vụ đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập quốc tế.


Hạ tầng kinh tế-xã hội cũng đã có bước phát triển vượt bậc, trở thành nền tảng quan trọng cho công cuộc hiện đại hóa đất nước. Từ chỗ cơ sở vật chất nghèo nàn sau chiến tranh, đến nay Việt Nam đã hình thành mạng lưới hạ tầng ngày càng đồng bộ và hiện đại. Hàng nghìn kilômét đường cao tốc, cầu lớn, cảng biển, sân bay quốc tế được xây dựng, tạo điều kiện kết nối thông suốt các vùng, miền và với các khu vực, thế giới. Hệ thống điện, năng lượng tái tạo, viễn thông và công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và chuyển đổi số. Đặc biệt, tốc độ đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, với sự ra đời của nhiều đô thị hiện đại, khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp tập trung, góp phần thay đổi diện mạo đất nước. Hạ tầng ngày càng hoàn thiện không chỉ tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa mà còn nâng cao chất lượng sống của Nhân dân, khẳng định tầm nhìn chiến lược trong đầu tư phát triển. 

 


Trong kỷ nguyên công nghệ, Việt Nam đã sớm xác định chuyển đổi số là động lực tăng trưởng mới. Nhiều lĩnh vực từ tài chính-ngân hàng, thương mại, giáo dục đến hành chính công đang chuyển đổi mạnh mẽ trên nền tảng số. Thương mại điện tử bùng nổ với quy mô hàng chục tỷ USD, góp phần đưa kinh tế số năm 2024 chiếm khoảng 18,3% GDP và dự báo tiếp tục tăng nhanh trong những năm tới. Việt Nam hiện được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số nhanh nhất Đông Nam Á, mở ra dư địa lớn để nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia. 
Cùng với chuyển đổi số, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ. Những năm gần đây, hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp ra đời, tập trung ở các lĩnh vực fintech, thương mại điện tử, logistics, trí tuệ nhân tạo, công nghệ xanh... Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những quốc gia có cộng đồng khởi nghiệp sôi động hàng đầu Đông Nam Á, thu hút hàng tỷ USD vốn đầu tư mạo hiểm mỗi năm. Nhiều sản phẩm, dịch vụ của startup Việt đã bước ra thị trường khu vực và quốc tế, khẳng định sức sáng tạo của trí tuệ Việt Nam. Sự phát triển của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đang bổ sung nguồn năng lượng mới cho nền kinh tế, góp phần đưa Việt Nam bắt nhịp với xu thế của kỷ nguyên kinh tế tri thức.

 


Những thành tựu kinh tế trong gần 4 thập kỷ đổi mới đã mang lại những thay đổi to lớn trong đời sống nhân dân và vị thế đất nước. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, mức thu nhập và chất lượng sống không ngừng nâng lên. Hệ thống y tế, giáo dục, an sinh xã hội được củng cố với nhiều chính sách nhân văn, bảo đảm công bằng và lan tỏa sự phát triển đến mọi vùng, mọi đối tượng. Trên nền tảng kinh tế ngày càng vững mạnh, Việt Nam cũng từng bước khẳng định vị thế quốc tế. Từ việc mở rộng quan hệ song phương, trở thành thành viên của nhiều tổ chức kinh tế-chính trị quan trọng đến tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nước ta đã hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, trở thành đối tác tin cậy của nhiều nền kinh tế lớn. Thành công trong việc duy trì tăng trưởng bền vững gắn với ổn định xã hội càng củng cố uy tín và bản lĩnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Có thể thấy trong 80 năm qua, Việt Nam đã đi qua một chặng đường dài với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng rực rỡ thành tựu. Những thành tựu ấy là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn, sự quyết tâm không ngừng đổi mới của Đảng, sự đoàn kết, ủng hộ của Nhân dân. Với mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, Việt Nam sẽ viết tiếp những mốc son mới, hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc./.

 

Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết