Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp xâm chiếm nước ta và phong kiến tay sai. Các phong trào của các tầng lớp nhân dân diễn ra mạnh mẽ, nhưng tất cả đều không thành công. Đất nước ta chìm trong đêm dài nô lệ. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản; muốn sống thì phải cách mệnh. Từ đó, Người đặt câu hỏi: Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Và Người trả lời: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[1]. Nhận thức rõ điều ấy, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt và ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ đây cách mạng nước ta có đường lối đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trở thành người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Trong bài viết này, tập trung vào Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị - Thành tựu và kinh nghiệm.
1. Đảng sáng lập và lãnh đạo hệ thống chính trị dân chủ nhân dân
Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia”[2].
Đảng đã sáng lập ra Mặt trận Việt Minh và tích cực xây dựng các tổ chức của quần chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
Một trong những nguyên nhân làm nên Cách mạng Tháng Tám là do Đảng ta chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công-nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đánh dấu sự hình thành một hệ thống chính trị dân chủ nhân dân. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân có một chính quyền tự xác định là công bộc của dân, dân là chủ và dân làm chủ, dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi. Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 2 năm 1951) được ẩn trong vai trò của Quốc hội và Chính phủ. Có một Mặt trận và nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận Liên Việt được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công-nông và trí thức vững chắc; có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
2. Đảng lãnh đạo hệ thống chuyên chính vô sản
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền: miền Nam tiếp tục cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội III của Đảng (năm 1960) xác định: “sau khi nhiệm vụ cách mạng dân tộc nhân dân đã hoàn thành, thì miền Bắc nước ta cần phải tiến ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa”[3], “Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản…”[4]. Với Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng (năm 1976) chỉ rõ rằng, muốn đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, “điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”[5]. Kể từ Đại hội III của Đảng cho đến khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống chính trị nước ta về thực chất được tổ chức và hoạt động theo các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản và do vậy, tên gọi của hệ thống và được xác định là hệ thống chuyên chính vô sản. Đảng ta chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản bao gồm những nội dung chủ yếu: (1) xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức; (2) xác định Nhà nước trong thời kỳ quá độ là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội; (3) xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản; (4) xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội; (5) xác định mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội.
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản được chỉ đạo bằng đường lối của các Đại hội III, IV và V của Đảng đã góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam (giai đoạn 1954-1975) và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1975-1985) đã góp phần mang lại những thành tựu quan trọng. Đánh giá thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Đại hội IV của Đảng (tháng 12 năm 1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[6]. Điểm mới, sáng tạo của Đảng là đã xác định làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta.
3. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”, là kết quả của bước đổi mới tư duy chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Văn kiện Đại hội VI đến Đại hội XII của Đảng đều nhấn mạnh xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong gần 35 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về hệ thống chính trị, trong đó nhấn mạnh những nội dung cốt lõi sau:
(1) Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng là thành viên của hệ thống chính trị, giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng được hiến định trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể trong Lời nói đầu và Điều 4 của Hiến pháp: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội… Điều 4, Hiến pháp năm 1992 đã xác định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ hơn: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và cả xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị; nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tìm tòi, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổ chức đảng có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác dụng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn.
Đảng Cộng sản Việt Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước. Sự lãnh đạo của đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới gần 35 năm qua.
(2) Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”[7].
Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[8].
Trong thực tiễn, dân chủ và thực hành dân chủ có bước tiến quan trọng: Thứ nhất, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất, kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm, được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, kinh doanh... là thành tựu lớn nhất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Thứ hai, dân chủ trong lĩnh vực chính trị được thực hiện ngày càng tốt hơn và có những bước tiến nổi bật. Các tổ chức trong hệ thống chính trị đã và đang tiếp tục được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động. Các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp) được coi trọng. Thứ ba, dân chủ trong lĩnh vực văn hóa và xã hội có những kết quả quan trọng, đặc biệt, dân chủ trong hoạt động lý luận khoa học đã có bước tiến, tạo điều kiện cho các nhà khoa học tranh luận, thảo luận và phát huy năng lực sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ còn những hạn chế, bất cập: Quyền làm chủ của nhân dân và sự tham gia của nhân dân trong quản lý Nhà nước và xã hội. Cho đến nay, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện ở nước ta vẫn còn tính hình thức - xét cả ở góc độ nhận thức và cả ở hiện thực tổ chức, hoạt động của các thiết chế và cơ chế thực thi. Mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc nền tảng cho tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta nhưng trong những năm gần đây rất nhiều vụ việc được phát hiện, xử lý kỷ luật, truy tố trước pháp luật đều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong nhận thức và hành động. Việc thực hành dân chủ còn những hạn chế: Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn bị vi phạm, việc thực hiện dân chủ ở một số nơi có lúc còn mang tính hình thức. Còn không ít biểu hiện mất dân chủ, hoặc dân chủ cực đoan; thực hiện pháp luật, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Trong Đảng, tình trạng vi phạm việc thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách còn xảy ra ở một số nơi. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm của người đứng đầu và của tổ chức đảng, chính quyền quy định chưa rõ ràng, thực hiện chưa nghiêm...
(3) Đảng lãnh đạo các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Nhà nước là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Nhận thức của Đảng ta về Nhà nước ngày càng có bước phát triển mới. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Một là, Đảng, Nhà nước ta càng ngày càng có nhận thức rõ hơn về vấn đề quyền con người. Từ chỗ không đề cập trực tiếp vấn đề nhân quyền trong các văn kiện của Đảng đến chỗ có đề cập và đề cập ngày càng đầy đủ hơn, nhất quán hơn. Hai là, Đảng chủ trương chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định của Việt Nam. Ba là, Đảng chủ trương Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế, trong đó có các cam kết quốc tế về quyền con người.
Nhận thức rõ hơn đặc trưng của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân: Một là, bảo đảm thực thi đầy đủ nguyên lý chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Hai là, quyền lực nhà nước là có giới hạn một cách rõ ràng bằng Hiến pháp và luật. Ba là, quyền lực nhà nước là thống nhất, mối quan hệ giữa các thiết chế lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước được điều chỉnh bởi nguyên tắc quyền lực của mỗi cơ quan đều được phân định rõ ràng, bảo đảm độc tương đối với nhau và có sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau (quyền lực kiểm soát quyền lực) trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bốn là, thượng tôn pháp luật được bảo đảm trong mọi hành vi ứng xử của Nhà nước đối với xã hội và đối với thị trường. Năm là, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước được bảo đảm. Sáu là, độc lập trong hoạt động xét xử (độc lập tư pháp) được bảo đảm một cách đầy đủ và thực chất (thể hiện cả trong cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp, điều kiện bảo đảm về ngân sách, nguồn bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tư pháp v.v.). Bảy là, Nhà nước xây dựng được hệ thống pháp luật công khai, minh bạch, khả thi, thống nhất, đồng bộ, ổn định. Tám là, phân định thẩm quyền trung ương, địa phương (phân cấp): một cách rõ ràng, bằng luật định, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, từng bước thực hiện nguyên tắc tự quản địa phương. Chín là, tôn trọng đầy đủ cam kết quốc tế, tham gia tích cực vào các cơ chế quản trị toàn cầu để góp phần vào sự phát triển chung của thế giới và bảo vệ thỏa đáng/có hiệu lực lợi ích quốc gia. Mười là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 bổ sung yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới thể hiện sự nhận thức đúng hơn về tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định đầy đủ, đồng bộ và toàn diện những nội dung thuộc quyền con người, quyền công dân.
Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề nhận thức lý luận chưa rõ và còn có ý kiến khác nhau: Về dân chủ trực tiếp: mặc dù Hiến pháp 2013 quy định về dân chủ trực tiếp nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ. Về dân chủ đại diện, các quy định nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân… chưa đầy đủ, bó hẹp, cứng nhắc. Năng lực, hiệu lực của Nhà nước ta còn thấp. Bộ máy nhà nước còn công kềnh, nhiều tầng nấc, chưa được phân công rành mạch, phân quyền chưa đủ mạnh dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa bị phân mảnh, manh mún vừa có sự trùng giẫm, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Nhà nước trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế, tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều. Trách nhiệm giải trình của Nhà nước trước dân còn hình thức, chưa thực chất. Xử lý chưa hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội.
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Cương lĩnh năm 1991 đã xác định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đến Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), nhận thức của Đảng ta về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có bước phát triển mới.
Về vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân được xác định là “rất quan trọng” đó là: Trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; Thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Về tổ chức và vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị được xác định: Là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Nghị quyết của Đại hội XI và Đại hội XII đã chỉ rõ các nhiệm vụ mới của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là: Tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp, đoàn kết nhân dân, thực hiện dân chủ, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Đại hội lần thứ XII đề ra giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hiến pháp đã thể chế hóa chủ trương của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Điều 9, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ hơn về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”[9].
Đảng đã lãnh đạo Quốc hội ban hành Luật Mặt trận, Luật Công đoàn…
Hệ thống tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ phù hợp với nhiệm vụ của các nhiệm kỳ đại hội của từng tổ chức.
Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII, ngày 25/10/2017 về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đã giảm được 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 7 tổng cục và tương đương; 81 cục, vụ và tương đương; hơn 2.600 phòng và tương đương. Đặc biệt, giảm hơn 15.000 lãnh đạo cấp trưởng, cấp phó các cấp; giảm hơn 236.000 (tương đương 6,58%) công chức, viên chức, 41.000 hợp đồng và hơn 25.000 người hoạt động không chuyên trách cấp xã (tương đương 12.84%)… Qua đó, tiết kiệm chi thường xuyên khoảng 10.000 tỷ đồng, tăng chi đầu tư phát triển.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở. Chú trọng phát triển đoàn viên, hội viên của các tổ chức thành viên. Phát huy vai trò của các cá nhân tiêu biểu trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, trong cộng đồng dân cư, trong các dân tộc, tôn giáo, nhân sỹ, trí thức, chuyên gia tham gia các hoạt động trên địa bàn khu dân cư.
Chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân. Tích cực triển khai các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động...Tăng cường phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cùng cấp trong việc triển khai các nghị quyết liên tịch, các chương trình mục tiêu quốc gia, được thực hiện có hiệu quả như: Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; công tác xóa đói giảm nghèo bền vững...
Tuy nhiên, nhận thức lý luận về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn một số vấn đề chưa rõ. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội mới chỉ thực hiện vai trò, nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của mình đối với cơ quan, tổ chức của Nhà nước, cán bộ chính quyền và dân cử các cấp, chưa có quy định pháp lý để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện đối với tổ chức đảng và đảng viên. Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”. Quy định này đã được luật hóa tại Điều 4; tuy nhiên, trên thực tế, Đảng mới thực hiện rõ vai trò lãnh đạo, còn vai trò là tổ chức thành viên thì chưa được quy định rõ, cho đến nay vẫn còn có nhận thức chưa đầy đủ. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn một số hạn chế, bất cập: Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ chuyên trách công tác còn yếu về năng lực chuyên môn, thiếu kinh nghiệm thực tiễn.
Nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có mặt còn chậm đổi mới so với yêu cầu, nhiệm vụ. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, các cuộc vận động chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa bám sát chức năng, nhiệm vụ của mình; chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhất là những vấn đề bức xúc của nhân dân. Thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có việc còn chồng chéo hoặc mang tính hình thức. Một số nơi, các cuộc vận động, phong trào thi đua chưa tạo được sự chuyển biến tích cực, chưa cải thiện được nhiều tình hình khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Ở một số lĩnh vực, địa bàn thực tế, Mặt trận chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đặc biệt đối với những vụ việc còn gây bức xúc, “điểm nóng” trong xã hội; còn nhiều khó khăn trong triển khai các nhiệm vụ về giám sát và phản biện xã hội.
Khái quát lại, “Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công việc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ…”[10].
4. Một số bài học kinh nghiệm
Qua 90 năm lãnh đạo hệ thống chính trị, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn của cách mạng để thành lập tổ chức, xác định chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hai là, phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, bám sát thực tiễn, thường xuyên đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức để đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức hệ thống chính trị.
Năm là, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhận thức và hành động theo quy luật khách quan, kịp thời tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để có chủ trương đúng, giải pháp cụ thể, phù hợp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của từng bộ phận trong hệ thống chính trị./.
PGS.TS Nguyễn Viết Thông
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.289.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.3.
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.531.
[4] ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Sđd, t.20, tr.559.
[5] ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Sđd, t.37, tr.507.
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Sđd, t.37, tr.471.
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đảng, Toàn tập, Sđd, t.51, tr.145.
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.84-85.
[9] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2013, tr.11-12.
[10] ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr.37-38.