Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Ngày phát hành: 26/02/2022 Lượt xem 4287

Phạm nhân phân trại số 1, Trại giam Ninh Khánh (Ninh Bình) trong giờ lao động. (Ảnh: Ninh Đức Phương/TTXVN)

 

1. Một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự

Thi hành án hình sự là hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người bị kết án phải tuân thủ, chấp hành các hình phạt, biện pháp tư pháp theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ gây ra nhằm bảo đảm tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có ý nghĩa giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

 

Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Đây là hoạt động được diễn ra nối tiếp, ngay sau quá trình xét xử của Tòa án. Các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực - kết quả của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự là cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động thi hành án hình sự. Mặc dù việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là quan trọng nhưng khi các bản án chỉ dừng lại ở mức đánh giá, lên án mà không được thi hành hoặc thi hành không đúng trong thực tiễn thì trật tự, kỷ cương xã hội không được bảo đảm, quyền lực nhà nước bị coi thường, toàn bộ quá trình tố tụng của hệ thống cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ không có nhiều ý nghĩa đối với công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và tính chịu hình phạt bị hạn chế. Chỉ khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì công lý, công bằng mới được thực hiện trong cuộc sống. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Tòa án là yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý nhà nước, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương phép nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đảm bảo tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật. Điều này đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm 2013: “Bản án, quyết định của tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.[1]

 

Thi hành án hình sự đồng thời là hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân, một trong những nội dung quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi. Hoạt động thi hành án một mặt đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, mặt khác đó là quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân, giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình để tự giác cải tạo, sửa chữa, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của đời sống xã hội, đồng thời ngăn ngừa hành vi tái phạm tội của bản thân họ, cũng như có ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa hành vi phạm tội của các đối tượng khác.

 

Công tác thi hành án không chỉ đơn giản là việc để người bị kết án chấp hành bản án, mà quan trọng hơn thông qua hoạt động thi hành án có tác động để thay đổi nhận thức, thái độ, định hướng giá trị tích cực cho người bị kết án, tạo tiền đề nhận thức, tâm lý, điều chỉnh, hoàn thiện, phục hồi nhân cách để họ trở thành người tốt khi tái hòa nhập cộng đồng. Thi hành án không chỉ nhằm trừng trị mà cao hơn đó là quá trình “giáo dục, cải tạo” người bị kết án để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Do đó có thể khẳng định, chất lượng, hiệu quả của công tác thi hành án hình sự sẽ quyết định để người phạm tội sau khi có bản án hình sự phải thi hành sẽ có hay không sự “ăn năn hối cải”, thay đổi, điều chỉnh để hoàn lương.

 

Việc thi hành án hình sự ở nước ta luôn quán triệt phương châm kết hợp giữa “trừng trị và giáo hóa”, “cưỡng chế và thuyết phục”, trong đó công tác giáo dục, cải tạo con người luôn được đặt lên hàng đầu nhằm giúp người bị kết án tích cực sửa chữa, hoàn lương để sớm tái hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 quy định:“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”[2]. Điều này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo xã hội chủ nghĩa của hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam đối với người có hành vi phạm tội. Thông qua cơ quan thi hành án hình sự, các biện pháp thi hành án hình sự, trực tiếp là hình phạt không chỉ là trừng trị, trừng phạt mà quan trọng hơn phải giáo dục người phạm tội ý thức thượng tôn pháp luật, tuân thủ quy định của nhà nước - xã hội khi tái hòa nhập cộng đồng.

 

Bản chất của hoạt động thi hành án hình sự là hoạt động thực thi pháp luật mang tính hành chính - tư pháp. Việc thi hành các bản án đều được tiến hành dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự. Nếu tất cả hoạt động tố tụng đều nhằm đạt đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án thì thi hành án lại nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết đó. Do đó có thể nói, tố tụng hình sự là tiền đề, khởi đầu của thi hành án hình sự, ngược lại thi hành án hình sự là quá trình thực hiện kết quả tố tụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, hoạt động thi hành án hình sự lại mang các đặc trưng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong quá trình thi hành án, các cơ quan thi hành án (thuộc hệ thống cơ quan hành pháp) sử dụng các biện pháp giáo dục thuyết phục hoặc mệnh lệnh hành chính tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự nguyện, tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp cưỡng chế buộc họ phải thi hành nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án.

 

Thi hành án hình sự là hoạt động đa dạng, phức tạp, có phạm vi rộng, từ việc thi hành các hình phạt chính như: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đến các hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính); thi hành các biện pháp tư pháp như: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh; các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như giáo dục tại xã phường thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với mỗi loại hình phạt khác nhau, việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định tổ chức, cơ quan thi hành, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành lại có sự khác nhau, được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự và các văn bản hướng dẫn. Như vậy, thi hành án hình sự và hình phạt, biện pháp tư pháp có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này, hình phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương pháp, hình thức, thời gian thi hành án hình sự.

 

Giai đoạn thi hành án hình sự bắt đầu từ khi có quyết định thi hành án và kết thúc khi người bị kết án chấp hành xong phần hình phạt chính trong bản án mà Tòa án đã tuyên đối với họ. Việc thi hành án hình sự có nghĩa là việc bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực đã áp dụng đối với họ. Bản chất của hoạt động này là việc các cơ quan nhà nước tước bỏ của người phạm tội một số quyền nhất định, quyền đó có thể là quyền được sống, được được tự do đi lại, quyền được cư trú hay được làm một công việc nhất định…. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án hình sự, người bị kết án vẫn được hưởng những quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án phải tuân thủ triệt để các quy định của Hiến pháp, pháp luật về thi hành án hình sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án, người chấp hành biện pháp tư pháp; đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị, răn đe với giáo dục, cải tạo để vừa đảm bảo pháp chế, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn sâu sắc của chế độ XHCN.

Bên cạnh đó, thi hành án hình sự còn là lĩnh vực rất nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến sinh mệnh chính trị, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, dễ bộc lộ những sơ hở, thiếu sót có thể bị các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Do đó, công tác thi hành án hình sự phải quán triệt nghiêm túc các yêu cầu về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, cơ quan, cán bộ thi hành án phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tuyệt đối không để xảy ra sai phạm tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

 

2. Thực trạng cơ sở chính trị, pháp lý và kết quả công tác thi hành án hình sự ở nước ta trong thời gian qua

 

Quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước và các cơ quan tư pháp, công tác tư pháp nói chung, công tác thi hành án hình sự nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23-01-1995) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhấn mạnh: “Điều chỉnh hợp lý sự phân công và phối hợp giữa các quan hành chính với viện kiểm sát và tòa án trong các khâu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”[3], đồng thời chỉ rõ: “xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử. Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội”[4].

 

Để có những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án hình sự, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp thời gian tới, trong đó chỉ đạo: “Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh”.

 

Ngày 02-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định: “… xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính bị xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành”; “xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của tòa án”. Tiếp đó, ngày 12/03/2014, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, chỉ đạo: “Tiếp tục thực hiện mô hình thi hành án hình sự như hiện nay. Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân địa phương trong công tác thi hành án”. Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW nêu rõ: “Đổi mới, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo quy định của Hiến pháp năm 2013”.

 

Bên cạnh đó, ngày 22-10-2010, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, trong đó chỉ đạo: “Tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ những người phạm tội được đặc xá, tha tù… Quan tâm hỗ trợ những người lầm lỗi đã cải tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng”. Ngày 16-8-2021, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW, trong đó nhấn mạnh: “nghiên cứu, xây dựng các giải pháp phù hợp, thiết thực và đầu tư nguồn lực cho công tác quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người đặc xá, chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương, tái hòa nhập cộng đồng”…

 

Có thể thấy, những quan điểm, chủ trưởng của Đảng nêu trên là cơ sở chính trị quan trọng để tổ chức thực hiện công tác thi hành án hình sự bảo đảm nghiêm túc, hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra trong từng thời kỳ, giai đoạn. Thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật về công tác thi hành án hình sự, như: Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 (sửa đổi bổ sung năm 2007); Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Quy chế trại giam; Luật Đặc xá năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức hoạt động thi hành án hình sự, bảo đảm sự nghiêm trị, nghiêm minh của pháp luật và tính khoan hồng, nhân đạo, nhân văn của Đảng, Nhà nước ta.

 

Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi hành án hình sự, những năm qua, công tác thi hành án hình sự đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, các bản án, quyết định hình sự của Tòa án được thi hành nghiêm minh, góp phần quan trọng kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, phục vụ có hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự, trong đó đã đạt được một số kết quả nổi bật là:

 

- Công tác thi hành án phạt tù: Các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ (cơ sở giam giữ phạm nhân) đã thực hiện đúng quy định về trình tự, thủ tục, hồ sơ đưa người bị kết án tù đi chấp hành án. Đã bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về quyền của phạm nhân và thực hiện chế độ, chính sách giáo dục, cải tạo đối với phạm nhân. Công tác giáo dục cải tạo, hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân có nhiều đổi mới, mang ý nghĩa nhân văn, tạo môi trường thuận lợi để phạm nhân học tập, lao động, rèn luyện, cải tạo tiến bộ; từng bước thực hiện chủ trương “xã hội hóa” công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân.

Các cơ sở giam giữ phạm nhân đã triển khai có hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ để nắm tình hình, phát hiện và kịp thời xử lý các vụ việc phức tạp, đột xuất xảy ra; bảo đảm an ninh, an toàn các cơ sở giam giữ, không để xảy ra các vụ gây rối và chống đối tập thể; giảm mạnh số phạm nhân trốn trại.

Bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về quyền của phạm nhân. Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với những người đang chịu án phạt tù, qua đó khuyến khích, động viên phạm nhân tích cực phấn đấu, lao động, học tập để có đủ điều kiện hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước, sớm chấp hành xong hình phạt để trở về với gia đình, cộng đồng xã hội.

 

- Công tác thi hành án tử hình: Thực hiện Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật Thi hành án hình sự năm 2019, hình thức thi hành án tử hình bằng “tiêm thuốc độc” được thay thế cho hình thức “xử bắn” trước đây. Hình thức này được coi là tiến bộ và nhân đạo hơn, giảm thiểu tối đa đau đớn cho người bị kết án, đồng thời giảm bớt áp lực tâm lý cho người tham gia thi hành án, thể hiện chính sách nhân đạo, văn minh của Đảng, Nhà nước đối với người bị kết án tử hình, từng bước đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

- Công tác thi hành án trục xuất: Việc thi hành án phạt trục xuất được giao cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh thực hiện. Từ năm 2011 đến nay, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh đã trục xuất đối với 138 trường hợp. Việc trục xuất bảo đảm đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, vừa đảm bảo chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước.

 

- Công tác thi hành án hình sự tại cộng đồng: Công an các đơn vị, địa phương đã thực hiện tốt việc tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong tổ chức thi hành án; thực hiện tiếp nhận bản án, quyết định thi hành án, tài liệu, hồ sơ và tổ chức thi hành án. Công an cấp xã đã tham mưu, giúp UBND cấp xã trong thực hiện quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự tại cộng đồng, phát huy vai trò chủ công, nòng cốt trong thực hiện quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án hình sự tại cộng đồng.

 

- Công tác tái hòa nhập cộng đồng: Thực hiện chính sách thi hành án hình sự nhân văn, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công an chủ trì tham mưu thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng đói với người chấp hành xong án phạt tù, được được đặc xá; Bộ Công an đã tham mưu Chính phủ ban hành 02 nghị định, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành 02 thông tư và nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tái hòa nhập cộng đồng. Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện trong lực lượng Công an địa phương và tham mưu với Ủy ban nhân dân cùng cấp ban hành kế hoạch chỉ đạo các sở, ban, ngành, các cấp chính quyền địa phương tổ chức thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng; thực hiện tốt công tác quản lý cư trú, quản lý nghiệp vụ, qua đó nắm chắc thực trạng, tình hình người chấp hành xong hình phạt tù về cư trú tại địa phương; đồng thời, tham mưu ban hành cơ chế, chính sách, xây dựng các mô hình hỗ trợ giúp đỡ, tạo việc làm cho người chấp hành xong hình phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng.

 

Được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của cấp ủy, chính quyền các cấp, những năm qua, công tác thi hành án hình sự được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, các bản án, quyết định hình sự của tòa án được bảo đảm thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chung của từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng, qua đó góp phần tích cực bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng, công tác thi hành án hình sự vẫn còn những khó khăn, tồn tại hạn chế nhất định, như: hệ thống pháp luật về thi hành án hình sự vẫn còn bất cập; cơ sở vật chất bảo đảm thi hành án còn thiếu, lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn; số lượng cán bộ thi hành án tại các cơ sở giam giữ còn thiếu, nhất là cán bộ nữ; người bị kết án gia tăng gây áp lực cho công tác giam giữ; công tác thi hành án tử hình còn gặp nhiều khó khăn; hoạt động xã hội hóa công tác thi hành án hình sự chưa phát huy được hiệu quả….

 

 

3. Vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự trong tình hình mới

 

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, ngay sau khi xuất hiện giai cấp và các hình thức nhà nước. Đây là những tư tưởng mang giá trị tiến bộ, nhân văn, gắn liền với sự phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật, nhấn mạnh nguyên tắc tuân thủ hiến pháp, pháp luật của nhà nước và công dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành một xu thế khách quan, tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam.

 

Những tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX gắn liền với khát vọng của nhân dân ta có một nhà nước độc lập, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng pháp luật; nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên quy định của pháp luật. Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Người yêu cầu thực dân Pháp phải ban hành hiến pháp, quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Mặc dù trong di sản lý luận của Hồ Chí Minh chưa đề cập đến khái niệm “nhà nước pháp quyền”, nhưng tư tưởng của Người về một nhà nước kiểu mới đã thể hiện khá đầy đủ, sâu sắc những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, theo tinh thần thượng tôn pháp luật, nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Điều này đã được hiện thực hóa trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (năm 1946) và đã trở thành những tư tưởng, quan điểm nền tảng, cốt lõi về xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

 

Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, những giá trị phổ biến trong nội dung tư tưởng về nhà nước pháp quyền trên thế giới và nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và thực tiễn xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Theo đó, đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, yêu cầu thượng tôn pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý công minh và kịp thời; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện.

 

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, có thể thấy rằng, trong nhà nước pháp quyền, các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp nói chung, hoạt động thi hành án hình sự nói riêng phải tuân thủ triệt để hiến pháp, pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các bản án, quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật của tòa án đều phải được thực thi nghiêm chỉnh, có hiệu quả để vừa bảo đảm tính đúng đắn, công bằng, nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm cho xã hội trật tự, kỷ cương; vừa bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể trong công tác thi hành án. Tính nhà nước pháp quyền của hoạt động thi hành án hình sự được thể hiện cụ thể ở việc phải có một hệ thống đầy đủ các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động thi hành án, các chủ thể trong công tác thi hành án (cơ quan quản lý thi hành án, cơ quan thi hành án, cơ quan thực hiện một số nhiệm vụ thi hành án, người bị kết án…) phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật trong hoạt động thi hành án, đồng thời công tác này phải được kiểm tra, giám sát để đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh, hiệu quả các bản án, quyết định của tòa án, nhằm hướng tới mục đích vì con người, vừa góp phần giáo dục, cải tạo, cảm hóa người chấp hành án, đồng thời góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa xã hội.

 

Thời gian tới, tình hình thế giới khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất an ninh trật tự. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng các chiêu bài “dân chủ” “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” để chống phá Đảng, Nhà nước, gây tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến công tác bảo đảm an ninh, trật tự nói chung, công tác thi hành án hình sự nói riêng. Trật tự, an toàn xã hội mặc dù được bảo đảm nhưng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, các loại tội phạm được kiềm chế nhưng tính chất, hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung một số nội dung sau:

 

Một là, tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc công tác thi hành án hình sự phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước và đặt trong tổng thể, đồng bộ với quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta. Công tác này phải tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp, các quy định của pháp luật, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng CAND, đồng thời huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, toàn xã hội và quần chúng nhân dân vào quá trình tổ chức thi hành án, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án. Đặc biệt, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, công tác thi hành án hình sự phải vừa thể hiện tinh thần “thượng tôn pháp luật”, bảo đảm các bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành kịp thời, nghiêm minh, đồng thời bảo đảm tính nhân đạo, nhân văn XHCN trong việc giáo dục, cảm hóa người lầm lỡ, để công tác thi hành án thực sự giúp những người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội sau khi hoàn thành chấp hành án, tái hòa nhập cộng đồng.

 

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoàn thiện các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật về thi hành án hình sự, tái hòa nhập cộng đồng. Trong đó, cần nghiên cứu, tập trung vào một số nội dung như: áp dụng hình thức thi hành án phạt tù tại gia đình hoặc tại địa bàn cư trú; cơ chế thi hành án hình sự đối với pháp nhân thương mại; nghiên cứu giảm hình phạt tử hình ở một số tội danh và đổi mới cách thức thi hành án tử hình; xã hội hóa công tác thi hành án hình sự; nghiên cứu bổ sung theo hướng mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn của công an cấp xã đối với công tác thi hành án hình sự; quan hệ phối hợp và phân công trách nhiệm trong thực hiện tái hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa tái phạm tội đối với người chấp hành xong án phạt tù, đặc xá, tha tù trước thời hạn…

 

Ba là, kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án hình sự của Bộ Công an theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, nắm vững các quy định của pháp luật và nghiệp vụ của ngành liên quan đến công tác thi hành án hình sự. Đặc biệt, phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ cảnh sát quản lý trại giam thực sự là những tấm gương tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, lối sống, có đủ uy tín, năng lực, thấu hiểu tâm lý, đạo lý để trở thành những “người thầy” có khả năng lan tỏa, cảm hóa, giáo dục phạm nhân trở thành những người có ích cho xã hội. Đồng thời, phải đảm bảo kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác thi hành án hình sự, nhất là cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hệ thống trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ. Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động thi hành án hình sự như: sử dụng robôt để thi hành án tử hình; sử dụng camera giám sát, định vị đối với đối tượng thi hành án phạt tù, thi hành án tại cộng đồng.

 

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác thi hành án hình sự; tăng cường phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong việc bảo đảm cho người chấp hành xong án phạt tù, đặc xá, tha tù trước thời hạn có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, ngăn ngừa tái phạm tội. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước trong tổ chức thực hiện thi hành án hình sự. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với người chấp hành án theo quy định của pháp luật, hạn chế đến mức tối đa các sai sót trong công tác thi hành án mà các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng chống phá.

 

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận về công tác thi hành án hình sự phục vụ tham mưu với Đảng, Nhà nước các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về thi hành án và đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thi hành án hình sự; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm trong xây dựng pháp luật về thi hành án hình sự với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần bảo đảm sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước và các điều ước quốc tế về thi hành án hình sự mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn trong hợp tác quốc tế về thi hành án hình sự.

 

Sáu là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền của các cơ quan báo chí, truyền thông và của toàn xã hội về tính nhân đạo, nhân văn XHCN của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi hành án hình sự. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức, xóa bỏ mặc cảm của xã hội và của đối tượng chấp hành án, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập sau khi chấp hành án, trở thành những công dân có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội./.

 

Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân,

                                        Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương,

                                          Giám đốc Học viện Chính trị CAND

 

 



[1] Điều 106, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

[2] Điều 31, Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, H.2007, tr.171.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, H.2007, tr.171.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết