I. Đánh giá chung về cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính quốc gia hơn 35 năm qua
Nền hành chính quốc gia có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước, được tổ chức thống nhất từ trung ương đến xã, phường, thị trấn. Sự phát triển và ổn định của chính trị, an ninh, quốc phòng và kinh tế- xã hội phụ thuộc rất nhiều vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính quốc gia. Vì vậy, ở một số quốc gia, cải cách hành chính (CCHC) luôn được tiến hành thường xuyên theo mục tiêu và các nội dung cụ thể. Tại Việt Nam, Đảng ta xác định CCHC là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong sự nghiệp đổi mới (bao gồm cả CCHC) do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ 1986 đến nay, nền hành chính nhà nước đã có nhiều cải cách, góp phần quan trọng vào quá trình chuyển đổi từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền XHCN; từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhờ đó, kinh tế- xã hội phát triển, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, sau 35 năm thực hiện, trước bối cảnh mới và những yêu cầu mới, CCHC rất cần có một cái nhìn mới, một tư duy mới để xác định mục tiêu và các nội dung cần tiếp tục thực hiện. Từ đó, xây dựng nền hành chính quốc gia tiếp tục phát triển theo hướng là nền hành chính phục vụ, đáp ứng sự hài lòng của nhân dân và yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1- Những kết quả đã đạt được
- Căn cứ các chủ trương của Đảng về CCHC, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, ban hành Chương trình tổng thể CCHC từng giai đoạn. Sau đó tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra các giải pháp, nội dung cải cách tiếp theo. Thường xuyên theo dõi, đánh giá, xếp loại công tác CCHC, công bố kết quả Chỉ số CCHC, đo lường, xác định Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước…
- Thể chế hành chính được cải cách và thường xuyên sửa đổi, bổ sung phù hợp yêu cầu phát huy dân chủ và cơ chế thị trường định hướng XHCN. Phần lớn các chủ trương quan trọng của Đảng đều được thể chế hóa để thực hiện. Góp phần xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người dân, xã hội và sự phát triển của đất nước.
- Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) đã trở thành điểm sáng trong CCHC vừa qua; đã cắt giảm rất nhiều thủ tục liên quan đến kinh doanh và phục vụ nhân dân; đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử đã chuyển biến mạnh mẽ.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã từng bước được tinh gọn từ Chính phủ tới chính quyền địa phương, cơ bản khắc phục chồng chéo, trùng lặp, bảo đảm ổn định, hiệu lực, hiệu quả; đã phân định hành chính với sự nghiệp và doanh nghiệp để quản lý phù hợp; đẩy mạnh phân công, phân cấp.
- Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC có nhiều đổi mới, như phân định cán bộ với công chức và viên chức; bước đầu xây dựng danh mục vị trí việc làm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng được đổi mới và phân cấp; cải cách tiền lương được quan tâm; thực hiện tinh giản biên chế.
- Cải cách tài chính công đã được đổi mới, các cơ quan, đơn vị chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Các dịch vụ sự nghiệp công phát triển, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, xã hội.
- Hiện đại hóa nền hành chính đã phát triển mạnh mẽ với các chính sách ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng và triển khai Kiến trúc Chính phủ điện tử, Chính quyền điện tử, đô thị thông minh và xây dựng hạ tầng kỹ thuật ƯDCNTT. Văn bản hành chính đi, đến, cùng chữ ký số đã được sử dụng thường xuyên. Trục liên thông văn bản quốc gia, Hạ tầng kỹ thuật ứng dụng CNTT và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đã xây dựng và từng bước kết nối, chia xẻ dữ liệu giữa các cơ quan. Hướng tới một nền hành chính không giấy tờ, tiết kiệm, hiệu lực, hiệu quả.
2- Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân:
a- Hạn chế, tồn tại:
- CCHC chưa được thực hiện đồng bộ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị.
- Chất lượng cải cách thể chế vẫn còn những bất cập, hạn chế. Tính ổn định và khả năng dự báo trong một số lĩnh vực còn thấp, văn bản pháp luật ban hành thực hiện chưa được lâu thì đã sửa đổi, bổ sung và thay đổi.
- Chưa xác định được nội dung nào trong cải cách hành chính là trọng tâm và tạo động lực mạnh mẽ cải thiện môi trường kinh doanh. Cải cách TTHC chưa thể hiện được tính liên thông và chưa phải là điểm mấu chốt mãi mãi trong cải cách hành chính. Chưa triển khai đầy đủ đánh giá mức độ hài lòng của người dân về chất lượng giải quyết TTHC.
- Việc tinh gọn tổ chức bộ máy chưa hướng tới sự hợp lý, còn mang tính cơ học. Bộ máy hành chính vẫn cần tiếp tục tinh gọn để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Phân công, phân cấp chưa đi vào thực chất, còn nhiều biểu hiện “nuối tiếc” trong quy định về phân cấp (thỏa thuận, thống nhất, xin ý kiến,...)
- Chất lượng CBCC chưa đáp ứng yêu cầu; còn yếu về năng lực, thiếu trách nhiệm; khó vượt qua được cám dỗ của tham nhũng, tiêu cực; tinh giản biên chế còn hình thức, chưa đưa người yếu, kém ra khỏi đội ngũ. Cơ chế quản lý CCVC chưa đổi mới kịp với yêu cầu của cải cách hành chính (Chế độ công vụ đã chuyển từ hệ thống chức nghiệp sang hệ thống việc làm).
- Cải cách tài chính công còn nhiều hạn chế. Việc sử dụng ngân sách và vốn đầu tư công còn lãng phí, kém hiệu quả. Chưa đổi mới được cơ chế quản lý, cơ chế tài chính khu vực sự nghiệp công lập. Cải cách chế độ tiền lương dậm chân tại chỗ, chưa thực hiện được nguyên tắc trả lương theo vị trí việc làm.
- Việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số và nền hành chính số còn chậm và chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương. Việc hình thành hệ thống dữ liệu dùng chung chưa đầy đủ, gặp nhiều khó khăn; chưa kết nối, liên thông giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành, dữ liệu dùng chung giữa các tổ chức. Hiệu quả cung cấp dịch vụ công mức độ 3, 4 cho người dân, tổ chức chưa cao.
b- Nguyên nhân:
- Tư duy, định hướng về cải cách hành chính vẫn đi theo “lối mòn”, chậm được đổi mới và điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển, tương thích với những thay đổi và yêu cầu của thực tiễn.
- Chủ trương của Đảng về cải cách hành chính trong tình hình mới chưa được ban hành một cách hệ thống, đồng bộ;
- Việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ như quy định tại Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013 về việc “kiểm soát” giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Giữa hành pháp chính trị với hành chính công vụ còn chồng lấn, chưa được phân định rõ ràng. Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế còn duy ý chí, hình thức và chưa quan tâm đến tính hợp lý.
- Chưa chú trọng, quan tâm đúng mức đến yếu tố con người (cán bộ, công chức, viên chức) trong cải cách hành chính. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chưa được thực sự được nâng cao; tinh giản biên chế còn hình thức, chưa đưa được những người yếu, kém ra khỏi đội ngũ.
II. Đổi mới tư duy, xây dựng nền hành chính quốc gia đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng 2045
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay Việt Nam đang chuyển dần quản lý nhà nước sang quản trị quốc gia, phát huy dân chủ với 3 chủ thể cơ bản: Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Trong bối cảnh: cách mạng công nghiệp 4.0 với công nghệ kỹ thuật số; kinh tế- xã hội ngày càng phát triển; truyền thông rộng rãi; trình độ dân trí ngày một nâng cao; hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng cùng với sự quyết liệt của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,… Chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện CCHC mạnh mẽ theo một tư duy mới nhằm đáp ứng 3 yêu cầu cơ bản:
+ Góp phần giải quyết hiệu quả mối quan hệ có tính vĩ mô giữa Nhà nước- thị trường- xã hội. Xây dựng nền hành chính quốc gia đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, giúp Nhà nước quản trị hiệu quả và phát huy được vai trò năng động của kinh tế thị trường định hướng XHCN, kiểm soát được những mặt hạn chế, tự phát của thị trường. Phát huy vai trò và sức mạnh của nguồn lực xã hội để phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện tốt an sinh xã hội.
+ Góp phần chuyển sang thực hiện quản trị quốc gia hiệu quả với một nền hành chính số, hành chính không giấy tờ; sử dụng và phát huy tối đa các sản phẩm của Cách mạng công nghiệp 4.0 và các thành tựu khác của khoa học kỹ thuật, công nghệ mới. Tạo nên sự kết nối bền vững, thông suốt giữa các tổ chức, các nguồn lực, các lực lượng của đất nước.
+ Thúc đẩy có hiệu quả hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu để Việt Nam thật sự hội nhập với thế giới và tiến cùng thời đại.
Muốn đáp ứng yêu cầu trên, cần phải đổi mới tư duy với các đột phá để xác định đúng mục tiêu, quan điểm và các nội dung CCHC. Qua đó, tiếp tục hoàn thiện nền hành chính quốc gia đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường XHCN Việt Nam và góp phần phát triển nền dân chủ XHCN.
1- Đổi mới tư duy, nhận thức về hành chính và cải cách hành chính:
1). Về cải cách hành chính:
Cần thống nhất một điều, trong bộ máy Nhà nước, hành chính là hoạt động không chỉ diễn ra trong các cơ quan của Chính phủ và Chính quyền địa phương mà còn diễn ra trong bộ máy của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp và tư pháp. Bên cạnh đó, chế độ công vụ của Việt Nam cần phải tiếp tục cải cách và thực hiện đồng bộ trong cả các cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị- xã hội.
Do đó, CCHC phải được tiến hành một cách đồng bộ, thống nhất, đầy đủ không chỉ trong tất cả các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, trong tất cả các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mà cần thực hiện trong các cơ quan của Đảng và của tổ chức chính trị xã hội. Không có cơ quan, tổ chức nào đứng ngoài cải cách hành chính. Chính phủ phải thực sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vấn đề vướng mắc trong nền hành chính quốc gia.
2). Về nội dung cải cách hành chính:
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện 6 nội dung của CCHC (thể chế; thủ tục hành chính; tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; chế độ công vụ; tài chính công; xây dựng nền hành chính điện tử, hành chính số) với 3 trọng tâm là thể chế; đội ngũ cán bộ, công chức và xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Tuy nhiên, trước bối cảnh và yêu cầu hiện nay, cần tư duy cải cách hành chính theo mục tiêu: Xây dựng một nền hành chính phục vụ, đáp ứng sự hài lòng của người dân với 3 trụ cột và 1 trọng tâm (then chốt). Cụ thể là:
+ Trụ cột thứ nhất: Tổ chức bộ máy: Phải tinh gọn hợp lý và hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
+ Trụ cột thứ hai: Chế độ công vụ, công chức: Phải đổi mới cơ chế tuyển dụng, sử dụng và quản lý theo vị trí việc làm; chú trọng thực tài.
+ Trụ cột thứ ba: Hiện đại hóa hoạt động hành chính: Xây dựng nền hành chính điện tử, hành chính số tiến tới nền hành chính không giấy tờ.
Đồng thời với quá trình xây dựng 3 trụ cột này, phải xác định yếu tố CON NGƯỜI là trọng tâm, là then chốt của cải cách hành chính. Các nội dung khác như cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tài chính công phải trở thành công việc thường xuyên trong CCHC.
3) Thống nhất tư duy về tinh gọn tổ chức bộ máy:
Sắp xếp tổ chức bộ máy cần thống nhất tiếp cận tư duy mấy điểm sau:
- Tinh gọn nhưng phải hợp lý, phải bảo đảm hoạt động hiệu quả hơn. “Tinh gọn” không chỉ hiểu đơn thuần là sát nhập, mà còn bao hàm cả việc giải thể, tổ chức lại. Tránh sáp nhập cơ học và duy ý chí, không để tình trạng nhập vào rồi lại tách ra.
- Sự tương đồng hay không tương đồng về chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức không phải là căn cứ sáp nhập. Vấn đề quan trọng là phải hợp lý, hiệu quả và chỉ sáp nhập các tổ chức với điều kiện phải hoạt động theo cùng một hệ quy chiếu. Nói cách khác, các tổ chức phải cùng hoạt động theo quy định của Điều lệ hoặc của Pháp luật thì mới có thể sáp nhập vào với nhau.
- Không lấy biên chế làm tiêu chí để thành lập tổ chức. Việc thành lập tổ chức cần phải căn cứ vào các tiêu chí: chức năng, nhiệm vụ; đối tượng quản lý; phạm vi hoạt động,…. Khi có tổ chức với chức năng, nhiệm vụ cụ thể mới xây dựng Khung Danh mục vị trí việc làm. Căn cứ Danh mục vị trí việc làm mới tiến hành xác định được biên chế. Chưa có tổ chức thì không thể xác định được các vị trí việc làm, nói gì đến biên chế. Do đó, nên bỏ tư duy theo hướng lấy biên chế làm tiêu chí trong quy định căn cứ thành lập tổ chức.
- Quản lý theo vị trí việc làm thì không có khái niệm biên chế tối thiểu và biên chế tối đa. Biên chế luôn luôn là một hằng số, và chỉ có thể được xác định căn cứ vào vị trí việc làm và cách thức tổ chức hoạt động.
4) Cần nhận thức và hiểu rõ về vị trí việc làm và quản lý biên chế:
Trong chế độ công vụ việc làm thì Danh mục vị trí việc làm là gốc, biên chế là ngọn. Có Vị trí việc làm mới tính toán được số biên chế cần thiết. Do đó, cần đổi mới cách thức quản lý vị trí việc làm và biên chế. Trong đó, Chính phủ phải thống nhất quản lý Danh mục vị trí việc làm. Còn biên chế nên phân cấp cho địa phương để phát huy tính tự quản của chính quyền địa phương. Bên cạnh đó cần chú ý:
a- Vị trí việc làm:
+ Chính phủ cần phải quy định phương pháp xác định vị trí việc làm để thực hiện thống nhất giữa các Bộ, ngành và địa phương. (Hiện nay, Chính phủ không có văn bản nào quy định phương pháp xác định vị trí việc làm, mỗi nơi làm một kiểu).
+ Vị Trí Việc Làm phải được quản lý thống nhất và theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm nguyên tắc: các tổ chức có chức năng, nhiệm vụ như nhau thuộc các Bộ ngành và địa phương khác nhau thì Khung danh mục vị trí việc làm phải giống nhau, nghĩa là phải cùng chung danh mục vị trí việc làm. (Hiện nay, có một bất hợp lý là Chính phủ phân cấp và giao cho các Bộ, ngành và địa phương tự xác định vị trí việc làm, tự thẩm định và tự phê duyệt vị trí việc làm của mình. Dẫn đến Vị trí việc làm không được quản lý thống nhất).
b- Biên chế và quản lý biên chế:
- Nên phân cấp quản lý biên chế và đổi mới cơ chế quản lý biên chế như sau:
+ Biên chế ở các cơ quan Trung ương cần phải quản lý thống nhất và do một cơ quan quyết định.
+ Biên chế các địa phương cần phân cấp để phát huy tính tự quản, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Cụ thể là:
(1) Biên chế của Bộ máy Nhà nước ở Trung ương do Chính phủ trình Quốc hội quyết định (gồm Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Chính phủ, Viện KSND, Tòa án ND);
(2) Biên chế các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể do Ban TCTW trình Ban Bí thư quyết định;
(3) Biên chế của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
- Thay đổi tư duy về giao và phân bổ kinh phí: Cấp có thẩm quyền không giao kinh phí cho các đơn vị, tổ chức theo số lượng biên chế được phê duyệt mà chuyển sang giao kinh phí theo nhiệm vụ và kế hoạch công việc được giao hàng năm.
- Về tinh giản biên chế, cần thực hiện đúng với tư tưởng và các nhiệm vụ, giải pháp đã quy định tại Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế với mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, đưa những người không làm được việc ra khỏi đội ngũ để tuyển dụng những người làm được việc vào công vụ.
5) Về phân quyền, phân cấp và vấn đề nhân tài:
- Cần đổi mới tư duy về phân quyền và phân cấp, ủy quyền trong bộ máy nhà nước theo hướng: Cái gì giao hẳn cho địa phương quyết định thì gọi là phân quyền; những việc Trung ương thấy không cần quản lý thống nhất hoặc xuất phát từ đặc thù của địa phương thì nên phân quyền cho địa phương (đưa vào Luật); một việc mà Trung ương và địa phương cùng làm thì cũng phân cấp cho địa phương; Các cơ quan ở Trung ương như Chính phủ, các Bộ, ngành hoặc chính quyền địa phương cấp tỉnh được Luật giao thẩm quyền thì có thể phân cấp hoặc ủy quyền cho cấp dưới thực hiện. Phân cấp chỉ thực hiện trong bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương; không thực hiện phân cấp quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Cần phân định rõ nội dung của hành pháp chính trị với hành chính công vụ. Để từ đó, chỉ thực hiện phân cấp trong lĩnh vực hành chính công vụ. Còn hành pháp chính trị thì không phân cấp, giống như lập pháp của Quốc Hội không thể phân cấp, tương tự tư pháp (xét xử) cũng thế. Việc phân cấp chỉ thực hiện trong hệ thống bộ máy các cơ quan Hành chính Nhà nước nhưng phải bảo đảm sự quản lý thống nhất của Chính phủ và lưu ý rằng không phải việc gì cũng phân cấp.
- Vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập cần thay đổi tư duy theo hướng: xây dựng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tất cả các đơn vị sự nghiệp, dù nguồn tài chính được cấp từ NSNN hoặc có từ nguồn thu sự nghiệp. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp phải gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao hàng năm.
- Đổi mới công tác cán bộ, lựa chọn người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý ngoài việc tuân thủ nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; phát huy dân chủ ở cơ sở. Phải lựa chọn được người xứng đáng có cả đức và tài, đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm (chức danh lãnh đạo, quản lý). Lấy Đức làm gốc, làm căn bản, coi trọng tiêu chí Liêm chính, Trách nhiệm, Tự trọng trong phạm trù Đức; Còn Tài cần chú ý nhất việc quy tụ, đoàn kết, làm việc hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Không làm được việc phải bố trí người khác thay, không để “ôm ghế”. Phòng chống tình trạng chủ quan, duy ý chí, áp đặt, tiêu cực. Người tiến cử, người giới thiệu phải chịu trách nhiệm về việc tiến cử, giới thiệu của mình. Không lấy tuổi làm điều kiện lựa chọn cán bộ mà lấy uy tín, sức khỏe, liêm chính, hiệu quả công việc làm căn cứ để lựa chọn, giới thiệu cán bộ.
- Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài phải nhận thức, tư duy lại, đó là:
+ Nhân tài phải được xác định với các tiêu chí cụ thể. Phải xác định được các tiêu chí để nhận dạng nhân tài thì mới thực hiện được chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài. Cần có cái nhìn biện chứng trong từng lĩnh vực về nhân tài. Nhân tài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật, thể thao khác với nhân tài trong lĩnh vực chính trị, lãnh đạo, quản lý.
+ Tư duy về nhân tài không chỉ thuần túy và hạn chế trong việc tìm từ nguồn nhân lực trẻ, mà cần phải tìm cả trong những người tuổi cao hoặc trung niên. Không lấy bằng cấp, học vị, độ tuổi làm tiêu chuẩn xác định nhân tài.
+ Việc sử dụng, trọng dụng nhân tài cần đổi mới theo nguyên tắc bình đẳng, thực tài: Không phân biệt độ tuổi; già trẻ; giới tính; dân tộc; vùng miền, đồng hương trong tuyển dụng, bầu cử, bổ nhiệm, trọng dụng, quy hoạch. Cứ làm được việc và có tâm vô tư trong sáng thì đều được dùng. Kiên quyết thay thế ngay nhân sự không làm được việc hoặc bè phái, mất đoàn kết, tiêu cực, nhũng nhiễu. Xử lý trách nhiệm người tiến cử không đúng người.
2. Mục tiêu, quan điểm cải cách hành chính đến 2030, định hướng đến 2045
1- Mục tiêu:
- Xây dựng nền hành chính dân chủ, kỷ cương, hiện đại, công khai, phục vụ nhân dân với chế độ công vụ thống nhất, trách nhiệm, liêm chính, văn hóa, thực tài.
2-Quan điểm:
- Thực hiện đúng chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy và tổ chức Đảng, trách nhiệm tham gia của Mặt trận TQVN và các tổ chức chính trị xã hội, nhân dân.
- Thống nhất về nhận thức và quyết tâm tiếp tục thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan Nhà nước, trong đội ngũ CBCCVC, nhân dân và toàn xã hội.
- Lấy yếu tố con người (đội ngũ CBCCVC) là trọng tâm, là then chốt của cải cách hành chính với 3 trụ cột: tổ chức bộ máy; công vụ, công chức; hiện đại hóa hoạt động hành chính.
- CCHC được tiến hành đồng bộ trong các cơ quan hành chính của Đảng, Nhà nước (gồm cả trung ương và chính quyền địa phương), đơn vị sự nghiệp công lập, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội.
- Gắn CCHC với việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa.
3. Các nội dung cải cách hành chính từ nay đến 2030:
Xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, đáp ứng sự hài lòng của người dân với 3 trụ cột. Trong đó, yếu tố con người (đội ngũ CBCCVC) là trọng tâm và là then chốt của CCHC. Các nội dung cải cách khác như: thể chế; thủ tục hành chính; tài chính công phải trở thành các công việc mang tính thường xuyên của CCHC.
1) Trụ cột thứ nhất- Tổ chức bộ máy:
- Xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ nhân dân với bộ máy tinh gọn hợp lý, tránh sáp nhập cơ học, duy ý chí. Tiếp tục tổ chức các Bộ đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung vào chức năng hoạch định, xây dựng chính sách và thực hiện hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm thuộc lĩnh vực quản lý; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền.
- Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo hướng: Đô thị 1 cấp chính quyền; Nông thôn 2 cấp chính quyền (Không tổ chức HĐND ở quận, huyện, phường). Đô thị thuộc cấp tỉnh tổ chức 1 cấp chính quyền. UBND Quận, Huyện, Phường là cơ quan hành chính, hoạt động theo chế độ Thủ trưởng.
- Tiếp tục sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã. Nghiên cứu sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh theo chỉ đạo của Trung ương.
- Mở rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm sang toàn bộ hệ thống các tổ chức sự nghiệp công lập (không phân biệt do ngân sách nhà nước cấp hoặc do nguồn thu sự nghiệp).
- Tiếp tục thực hiện chuyển giao một số dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội đảm nhiệm.
- Rà soát, đẩy mạnh phân cấp cho địa phương theo nguyên tắc: bảo đảm quản lý thống nhất của Trung ương và phát huy tính tự quản của chính quyền địa phương.
- Gắn quyền hạn với trách nhiệm, ai được giao quyền hạn đến đâu thì quyết đến đó và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Rà soát, bãi bỏ các quy định về việc thỏa thuận, thống nhất, xin ý kiến (trừ các vấn đề có tính liên ngành).
- Đổi mới quản lý vị trí việc làm và biên chế theo hướng:
+ Chính phủ thống nhất quản lý và ban hành Danh mục vị trí việc làm;
+ Chính phủ quy định, hướng dẫn phương pháp xác định vị trí việc làm và thực hiện theo nguyên tắc: các cơ quan, tổ chức thuộc các Bộ, ngành, địa phương có cùng chức năng, nhiệm vụ thì phải cùng một Danh mục vị trí việc làm.
+ Chính phủ tổng hợp trình Quốc hội xem xét, quyết định biên chế công chức trong bộ máy hành chính ở các cơ quan nhà nước ở trung ương (gồm Văn phòng Chủ tịch nước, Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước).
+ Giao quyền quyết định biên chế cho chính quyền địa phương cấp tỉnh.
+ Ban Tổ chức Trung ương trình Ban Bí thư quyết định biên chế các cơ quan Đảng, đoàn thể. (sau này có thể phân cấp cho cấp ủy ở địa phương).
+ Tiếp tục tinh giản biên chế theo đúng Nghị quyết 39 của Bộ Chính Trị.
2) Trụ cột thứ hai- Đổi mới chế độ công vụ, lấy con người là then chốt: Xây dựng một nền công vụ thống nhất, văn hóa, trách nhiệm, liêm chính, năng động, thực tài. Gồm các nội dung:
- Thống nhất chế độ công vụ từ Trung ương đến cấp xã, không phân biệt CBCC cấp xã với CBCC từ cấp huyện trở lên.
- Đổi mới cơ chế lựa chọn, bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm, sử dụng, luân chuyển và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý theo chủ trương của Đảng.
- Nghiên cứu hoàn thiện công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại:
+ Sơ kết hoặc tổng kết các quy định về công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm lãnh đạo, quản lý.
+ Ban hành mới Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại. Việc bổ nhiệm cấp phó thực hiện theo nguyên tắc: cấp trưởng được lựa chọn cấp phó; cấp trưởng khuyết hoặc nghỉ thì người được bổ nhiệm thay thế sẽ xem xét, kiện toàn và bổ nhiệm, miễn nhiệm các cấp phó của mình. Cấp ủy Đảng có thẩm quyền và trách nhiệm xem xét hồ sơ, lý lịch, đơn thư tố cáo (nếu có), rà soát quy hoạch, tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, sau khi thảo luận phải có chính kiến (bằng văn bản) để cấp trưởng xem xét, cân nhắc (nếu có) trước khi bổ nhiệm và cấp trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình (không đẩy trách nhiệm cho tập thể).
+ Khi hết thời hạn bổ nhiệm, phải xem xét bổ nhiệm lại. Nếu không bổ nhiệm lại thì đương nhiên không còn chức vụ.
+ Ban hành và thực hiện Quy chế từ chức đối với cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức đã từ chức, nếu thời gian tiếp theo cơ quan có nhu cầu, vẫn đủ năng lực, phẩm chất, tiêu chuẩn, điều kiện thì vẫn được đề nghị và xem xét bổ nhiệm.
+ Quy định một số chức danh người đứng đầu không phải người địa phương- tiêu chí “người địa phương” xác định theo quê quán đã ghi trong lý lịch Đảng.
- Đổi mới cơ chế tuyển dụng, sử dụng và quản lý CCVC đồng bộ theo vị trí việc làm, bao gồm các giải pháp sau:
+ Thực hiện tuyển dụng theo vị trí việc làm; gắn thẩm quyền tuyển dụng với thẩm quyền sử dụng, theo nguyên tắc: “ai dùng người đó tuyển và chịu trách nhiệm về chất lượng”. Bỏ cách thức cơ quan cấp trên tuyển dụng rồi phân bổ về cho các cơ quan cấp dưới sử dụng. Theo nguyên tắc này, Nhà nước chịu trách nhiệm ban hành các quy định về chế độ tuyển dụng và mặt bằng chung về chất lượng công chức.
+ Thực hiện chế độ tuyển dụng lâu dài kết hợp với chế độ công chức hợp đồng theo hướng tăng dần tỷ lệ công chức hợp đồng trong các cơ quan; thực hiện chế độ hợp đồng chuyên gia có thời hạn.
+ Ban hành chế độ và chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng đối với người có thực tài; chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thực hiện liên thông nguồn nhân lực giữa khu vực tư với khu vực công.
+ Bãi bỏ chế độ tập sự và thi nâng ngạch: Tuyển dụng theo vị trí việc làm thì người được tuyển dụng hay ký hợp đồng lao động đều không phải thực hiện tập sự; làm việc ở vị trí nào thì bổ nhiệm vào chức danh ứng với vị trí đó. Do mỗi vị trí việc làm chỉ có một ngạch, không thể một vị trí lại có nhiều ngạch. Vì vậy, cần thiết bỏ thi nâng ngạch. Làm việc ở vị trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào ngạch (hoặc chức danh) công chức ứng với vị trí việc làm đó.
+ Cải cách chế độ tiền lương theo hướng: trả lương theo vị trí việc làm- mỗi vị trí việc làm chỉ có một ngạch (hoặc một chức danh) ứng với một mức lương. Được bố trí vào vị trí việc làm nào thì hưởng lương ở vị trí việc làm đó. Không thực hiện nâng lương theo thâm niên mà thực hiện hưởng phụ cấp thâm niên hàng năm.
+ Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu và gắn với vị trí việc làm: khi được bầu cử hoặc tuyển dụng thì người được trúng cử hoặc trúng tuyển phải qua khóa bồi dưỡng, huấn luyện các kỹ năng hành chính. Quá trình làm việc nếu yếu hoặc thiếu kỹ năng gì thì đăng ký bồi dưỡng kỹ năng đó.
+ Ban hành, thực hiện và kiểm tra quy chế Văn hóa công vụ trong tất cả các cơ quan hành chính từ Trung ương đến xã, phường, thị trấn.
+ Thực hiện chế độ sát hạch bắt buộc 2- 3 năm một lần đối với công chức. Nếu không đạt yêu cầu thì bố trí công tác khác hoặc đưa vào diện tinh giản biên chế.
3) Trụ cột thứ ba- Hiện đại hóa hoạt động hành chính gồm các nội dung sau:
- Hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý và xây dựng cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử và Chính quyền điện tử. Thực hiện Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Thực hiện đầu tư tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin các Bộ ngành, địa phương; chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng điện toán đám mây.
- Tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quản lý hoạt động công vụ, cung cấp dịch vụ công cũng như quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực.
- Tái cấu trúc quy trình, thủ tục hành chính để xây dựng, số hóa, hoàn thiện, tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch công Quốc gia.
- Hệ thống thông tin điện tử và Cổng dịch vụ công từ cấp Bộ, cấp tỉnh được kết nối với nhau, được chia sẻ dữ liệu với Cổng dịch công quốc gia.
- Xây dựng triển khai nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu, kết nối liên thông giữa các hệ thống thông tin Bộ, ngành, địa phương và của quốc gia.
- Tiếp tục phát triển các ứng dụng dịch vụ phục vụ người dân qua hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công,…. Có kế hoạch triển khai từng bước chuyển sang nền hành chính số và tiếp cận nền hành chính phi giấy tờ.
4. Định hướng cải cách hành chính đến năm 2045
1)- Cải cách thể chế: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống thể chế; Nâng cao chất lượng và tiến độ xây dựng pháp luật.
2)- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước:
- Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức Chính phủ phù hợp với tiến trình chuyển đổi số, đẩy mạnh phân cấp, phù hợp với yêu cầu phát triển và quản lý, điều tiết kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Tổ chức thành lập các cơ quan độc lập có chức năng thực thi pháp luật trên một số lĩnh vực, tách chức năng thực thi pháp luật khỏi các Bộ.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đô thị, ở nông thôn, ở hải đảo và đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt.
- Tiếp tục chuyển giao một số việc để khu vực tư thực hiện. Chuyển 1 số đơn vị sự nghiệp dịch vụ công sang mô hình doanh nghiệp- công ty cổ phần.
3)- Tiếp tục đổi mới và phát triển chế độ công vụ theo các nội dung:
- Tiếp tục hoàn thiện Khung danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan của các Bộ, ngành, địa phương theo từng cơ quan, tổ chức, đơn vị để quản lý thống nhất.
- Hoàn thiện, đổi mới tuyển dụng, sử dụng và quản lý CCVC theo VTVL.
- Đẩy mạnh thực hiện chế độ công chức hợp đồng trong các cơ quan hành chính Nhà nước.
- Quy định các chính sách liên quan đến việc phát hiện, tuyển chọn, tiến cử, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ.
- Hoàn thiện các quy định về văn hóa công sở, văn hóa công vụ.
- Thực hiện chế độ tiến cử, giới thiệu những người có tài năng để tuyển dụng, bổ nhiệm trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội. Người tiến cử chịu trách nhiệm.
- Hoàn thiện cơ chế trả lương theo vị trí việc làm.
4)- Tiếp tục hiện đại hóa hoạt động hành chính
- Triển khai xây dựng nền hành chính phi giấy tờ. Phát triển hạ tầng truyền dẫn đáp ứng nhu cầu chuyển từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số.
- Tiếp tục duy trì và phát triển nền tảng số, dữ liệu số, hệ thống dữ liệu phục vụ nhu cầu chuyển từ Chính phủ điện tử sang Chính phủ số tại bộ, ngành, địa phương.
- Phát triển hạ tầng Internet vạn vật (IoT) phục vụ các ứng dụng nghiệp vụ, chuyên ngành trong triển khai Chính phủ điện tử, Chính phủ số, gắn kết với phát triển đô thị thông minh tại các bộ, ngành, địa phương.
- Tổ chức khai thác, vận hành kho dữ liệu tổng hợp, sử dụng các công nghệ BigData, Al để quản lý, phân tích, cung cấp thông tin hỗ trợ ra quyết định cho các cấp lãnh đạo.
- Phát triển hệ thống dữ liệu nội bộ giữa các bộ, ngành, địa phương để tích hợp, kết nối, chia xẻ dữ liệu theo Khung kiến trúc Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Cung cấp, chia xẻ thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, công dân, các tổ chức xã hội.
- Xây dựng kho dữ liệu lưu trữ, dữ liệu điện tử; cung cấp dịch vụ dữ liệu, dịch vụ gia tăng trên các cơ sở dữ liệu hướng tới phục vụ người dân và tổ chức khai thác cơ sở dữ liệu có tính phí.
- Tiếp tục phát triển hệ thống tích hợp Cổng dịch vụ công và hệ thống thông tin một cửa điện tử để cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
5. Kiến nghị:
1) Đề xuất BCH Trung ương Đảng ban hành một Nghị quyết mới về CCHC đáp ứng yêu cầu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Có thể ban hành một Nghị quyết riêng về CCHC. Hoặc ghép vào Nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
2) Căn cứ Nghị quyết của Đảng về tiếp tục cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Quốc hội cần ban hành Nghị quyết về CCHC nhà nước, xây dựng nền hành chính quốc gia từ nay đến 2030 và định hướng đến 2045.
3) Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu, rà soát, ban hành Nghị quyết sửa đổi hoặc thay thế Nghị quyết số 76/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2021- 2030./.
TS. Trần Anh Tuấn
Chủ tịch Hiệp hội Khoa học hành chính Việt Nam;
Phó Chủ nhiệm HĐ tư vấn VHXH Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ