Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nâng cao năng lực độc lập-tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế giai đoạn mới (phần 2)

Ngày phát hành: 12/07/2023 Lượt xem 2306

 

II. Thực trạng năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế Việt Nam

 

1. Nhận thức về độc lập, tự chủ của nền kinh tế

 

Độc lập, tự chủ của một quốc gia thể hiện ở thực hiện chủ quyền quốc gia - quyền tự quyết tối cao trong quyết định các chính sách phát triển đất nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối nội và đối ngoại trên cơ sở luật pháp quốc tế, phù họp Hiến chương Liên Họp Quốc. Độc lập, tự chủ kinh tế luôn được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập, tự chủ về chính trị, vãn hóa, xã hội và các mặt cụ thể khác, tạo thành sự độc lập, tự chủ và sức mạnh tổng hợp của quốc gia.

Độc lập, tự chủ về kinh tế là có đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với điều kiện của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới; tạo được sức mạnh nội lực về kinh tế ngày càng lớn, có khả năng đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội ổn định, năng động, chủ động thích ứng với những thay đổi, biến động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế, tài chính ở khu vực, trên thế giới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và canh tranh quốc tế ngày càng tăng. Độc lập, tự chủ về kinh tế còn thể hiện sự không bị lệ thuộc vào nước khác, bị người khác áp đặt làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc mình.

 

Xây dụng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải có được hai yếu tố cơ bản sau: Một là, phải có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế - xã hội. Hai , phải có thực lực và tiềm lực kinh tế (quy mô và cơ cấu GDP) đủ mạnh ở mức cần thiết. Toàn bộ nền sản xuất xã hội không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội mà còn có tích lũy cần thiết để thực hiện tái sản xuất mở rộng ngày càng tăng và với trình độ ngày càng cao hơn. Nền kinh tế phải có sức cạnh tranh cao (bao gồm sức cạnh tranh của hàng hóa, sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế) trong hội nhập quốc tế, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Nền kinh tế phải có năng lực nội sinh đảm bảo an ninh kinh tế cao.

 

Trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, Đảng ta nhấn mạnh “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó: phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bển vững”. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kỉnh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công; đồng thời khẳng định để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phải đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta khảng định xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải gắn liền với hội nhập quốc tế, đặc biệt phải nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, để tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, “chủ động, tích cực hội nhập kỉnh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hỏa quan hệ kính tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

 

2. Những kết quả chủ yếu đạt được

 

Qua 36 năm đổi mới, với đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhìn tổng thể, năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế ngày càng được nâng cao, thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:

 

i). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 224 đối tác và quan hệ hợp tác với hơn 500 tổ chức quốc tế, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đàm phán, ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có một số FTA thế hệ mới với những chuẩn mực cao. Đặc biệt, Việt Nam đã trở thành một trong những nước đi đầu của khu vực trong hợp tác kinh tế đa phương.

 

ii). Tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục, đạt trung bình hơn 7%/năm trong giai đoạn 2000-2010; 5,91% giai đoạn 2011-2015; 6,57% giai đoạn 2016-2018. Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). Sau gần 3 năm bị tác động mạnh của đại dịch Covid - 19 (2019-2021), năm 2022 nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trường, đạt 8.02%.

 

iii). Quy mô và tiếm lực kinh tế ngày càng được nâng lên; GDP năm 2019 đạt trên 267 tỷ USD, tăng gần 2 lần so vói năm 2011; quy mô GDP Việt Nam năm 2021 đạt 368 tỷ USD, năm 2022 đạt 409 tỷ USD (theo cách tính mới có điều chỉnh của Tổng cục Thống kê).

 

iv). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hưởng tích cực, năng lực sản xuất không ngừng tăng lên. Giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng kinh tế Nhà nước giảm dần, tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước không ngừng tăng lên (đến năm 2020, tỷ trọng kinh tế do DNNN đóng góp khoảng 29 - 30% GDP và 28% tổng ngân sách nhà nước; DNTN đóng góp khoảng dưới 10% GDP; Doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 20% GDP; kinh tế tư nhân, cá thể, tập thể đóng góp khoảng 30% GDP).

 

Cơ cấu ngành, lĩnh vực chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân giảm từ 19,6% năm 2011 xuống dưới 14% năm 2019; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 32,2% lên trên 35,3%; khu vực dịch vụ tăng từ 36,7% lên trên 41%.

 

Sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng và đã trở thành ngành kinh tế chủ lực của đất nước với tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế và là động lực chính của xuất khẩu Việt Nam. Quy mô giá trị tăng thêm công nghiệp đến năm 2019 đạt 1.723,6 nghìn tỷ đồng, gấp 2,33 lần năm 2011, trong đó giá trị tăng thêm công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 995,1 nghìn tỷ đồng, gấp 2,68 lần năm 2011.

 

Khu vực nông nghiệp đã và đang tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng là trụ đỡ của nền kinh tế trong việc đảm bảo an ninh lương thực, xuất khẩu nông sản, tạo việc làm và thu nhập cho gần 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội. Quy mô giá trị tăng thêm nông, lâm nghiệp và thủy sản đến năm 2019 đạt 842,6 nghìn tỷ đồng, gấp 1,55 lần so với năm 2011, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2019 đạt 2,85%.

Khu vực dịch vụ đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng kinh tế, quy mô giá trị tăng thêm ngành dịch vụ đến năm 2019 đạt 2.513,8 nghìn tỷ đồng, gấp 2,46 lần năm 2011, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2019 đạt 6,9%. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông tin, bưu chính, viễn thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử,…tiếp tục được đẩy mạnh phát triển.

 

v). Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, năng lực chống chịu được nâng cao hơn - thể hiện rõ tính độc lập - tự chủ ngày càng nâng lên trong đường lối, chính sách triển kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Lạm phát cơ bản bình quân giảm mạnh từ mức tăng bình quân năm 13,62% năm 2011 xuống còn khoảng 2% năm 2015, sau đó ổn định ở mức khoảng 2%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giảm mạnh từ 18,58% năm 2011 xuống còn 0,63% năm 2015 và duy trì ở mức dưới 4% trong giai đoạn 2016-2019; năm 2022 ở mức khoảng dưới 3%.

 

Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán được kiểm soát ờ mức phù hợp, bình quân giai đoạn 2016-2019 khoảng 14,5%/năm. Mặt bằng lãi suất giữ tương đối ổn định trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều biến động. Thị trường ngoại tệ ổn định, tỷ giá giao dịch diễn biến trong biên độ, thanh khoản ngoại tệ hệ thống tốt. Quy mô dự trữ ngoại hối tăng cao, năm 2019 đạt khoảng 80 tỷ USD, gấp gần 6 lần so với năm 2011.

 

Quy mô thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng, thu ngân sách nhà nước theo dự toán của Quốc hội năm 2018 tăng gấp gần 2 lần so với năm 2011. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước dần được cải thiện, bội chi ngân sách nhà nưởc so với GDP đã giảm từ 6,61% năm 2013 xuống còn 3,46% năm 2018. Tỷ lệ nợ công, nợ nước ngoài và nợ Chính phủ so với GDP đều có xu hương tăng dần từ năm 2011 đến 2016 và đã bắt đầu giảm từ năm 2017.

 

Quy mô tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng ngày càng được mở rộng; giai đoạn 2016-2018, tổng vốn đầu tư đã tăng nhanh, tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra (33-34%). Cơ cấu đầu tư chuyển dịch rõ nét từ khu vực Nhà nước sang khu vực ngoài Nhà nước. Tỷ trọng đầu tư của khu vực Nhà nước giảm; tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng nhanh, nhất là đầu tư từ khu vực dân cư và doanh nghiệp. Hiệu quả đầu tư có bước cải thiện.

 

vi). Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện; vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới được cải thiện đáng kể (trong 190 nền kinh tế được đánh giá năm 2020, Việt Nam đạt 69,8 điểm trên 100, cao hơn năm 2019 (68,36), xếp thứ 70). Doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI) phát triển mạnh. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân có thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế. Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế tăng lên, đến hết năm 2019 ước có khoảng 697,6 nghìn doanh nghiệp, gấp 2,15 lần năm 2011; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng mạnh, nhất là từ năm 2016, năm 2019 ước có khoảng 134 nghìn doanh nghiệp đãng ký thành lập mới, gấp 1,73 lần năm 2011; đóng góp của kinh tế tư nhân trong GDP ngày càng cao, năm 2018 kinh tế tư nhân chiếm khoảng 9,1% GDP, tăng 1,76 điểm phần trăm so với năm 2011.

 

Môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện tốt hơn, đảm bảo tính ổn định chính trị - xã hội, là điều kiện để đầu tư FDI vào Việt Nam ngày càng tăng. Tính lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước có 33.070 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 384 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.

 

vii). Năng xuất lao động không ngừng được nâng lên. Trong giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng có xu hướng tăng nhanh; từ năm 2016 trở lại đây tăng năng suất lao động xã hội dao động quanh mức 6% và tỷ trọng đóng góp của TFP trong tăng trưởng cũng dao động quanh mức gần 40%. Đây là một nhân tố quan trọng góp phần nâng cao hơn năng lực cạnh tranh ủa nền kinh tế Việt Nam.

 

viii). Quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế có bước phát triển mạnh. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh, cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu có chuyền biến tích cực. Quy mô xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh, đến năm 2019, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt trên 517 tỷ USD, gấp 2,54 lần năm 2011. Dự kiến trong năm 2022 kinh ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 732 tỷ USD. Đến năm 2019 đã có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,9% tổng kim ngạch xuất khẩu (6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD). Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tham gia sâu hơn vào khâu gia công - lắp ráp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Thương mại nội địa tiếp tục phát triển, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2019 đạt 4940,4 nghìn tỷ đồng, gấp 2,38 lần năm 2011, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2019 đạt 12,75%.

 

Thực hiện đường lối "độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hỏa quan hệ đối ngoại", Việt Nam đã không ngừng "mở rộng" và phát triển quan hệ với hầu hết các quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới; từng bước đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, nhất là với 8 đối tác chủ chốt gồm: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh Châu Âu (EU). Trong số 08 đối tác nêu trên, có 3/5 nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, 7/20 nước thuộc nhóm G20, 2/7 nước thuộc nhóm G7. Các đối tác này chiếm hơn 78% GDP toàn cầu; 6/8 đối tác nêu trên đồng thời là 06 thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm trên 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, gần 70% vốn FDI và cũng là những đối tác viện trợ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nhiều nhất cho Việt Nam. Trong số các đổi tác nêu trên, có 05 đối tác chiến lược, gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga; 01 đối tác đối tác toàn diện là Mỹ; 02 tổ chức khu vực là ASEAN và EU. Nhìn chung, quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác chủ chốt nêu trên trong nhiều nội dung đã được triển khai hiệu quả, thực chất, góp phần giữ vững môi trường hòa bình ổn định, huy động các nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

 

2. Những hạn chế, bất cập về phương diện năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế

 

i). Tiềm lực của nền kinh tế được nâng lên, nhưng quy mô còn nhỏ bé so với dân số gần 100 triệu người, nguy cơ tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” của nền kinh tế nước ta vẫn còn hiện hữu, thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau:

- Về tăng trưởng kinh tế: Từ năm 2008 Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp với GDP bình quân đầu người đạt 1.145 USD; năm 2021 đạt 3.7432 USD/người, năm 2022 đạt 4.100 USD/ người. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm nước có thu nhập dưới trung bình, chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Ma-lai-xi-a năm 1990; Thái Lan năm 2003; In-đô-nê-xi-a năm 2009; Phi-li-pin năm 2011 và Hàn Quốc thập niên 80 của thế kỷ trước. Tính đến năm 2017, GDP bình quân đầu người của Thái Lan gấp 2,8 lần Việt Nam; Ma-lai-xi-a gấp 4,2 lần; In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin cũng là những quốc gia thuộc nhóm thu nhập thấp nhưng gấp Việt Nam lần lượt là 1,6 lần và 1,3 lần. Như vậy, xét trên góc độ GDP bình quân đầu người Việt Nam hiện đang đi sau  đi sau Thái Lan 14 năm[1], Ma-lai-xi-a 27 năm; đi sau Hàn Quốc khoảng 40 năm, sau In-đô-nê-xi-a 8 năm và Phi-li-pin 6 năm. Nếu so với Trung Quốc, với xuất phát điển năm 1978 GDP bình quân của Việt Nam và Trung Quốc đều ở mức 156 USD/người; đến năm 2021, GDP bình quân của Việt Nam đạt 3.743 USD/ người, nhưng của Trung Quốc đã tăng lên tới 12.551 USD/ người, tiệm cận với mức "quốc gia có thu nhập cao" (> 12.695 USD/người).

Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã là hơn 8.000 USD (năm 2017 là khoảng 8.300 USD, năm 2018 là 8.400 USD), hơn gấp đôi, và khoảng cách này vẫn tăng qua các năm.

 

- Về chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế còn thấp và thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Theo Tổng cục Thống kê, chi phí đầu vào cho sản xuất của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm. Tỷ lệ chi phí trung gian[2] so với giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế năm 2000 là 56,5%, năm 2017 ước tính là 68%. Nguyên nhân chủ yếu do khu vực công nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu là gia công chế biến với tỷ lệ chi phí trung gian cao, giá trị tăng thêm thấp.

 

- Về năng suất lao động: NSLĐ của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực: Tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất lao động của Xin-ga-po; 18,4% của Ma-lai-xi-a; 36,2% của Thái Lan; 43% của In-đô-nê-xi-a và bằng 55% của Phi-li-pin. Đáng chú ý là chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng[3]. Điều này cho thấy khoảng cách và thách thức nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.

 

- Hiệu quả đầu tư: Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn. Việc sử dụng vốn hiện nay còn lãng phí, thất thoát nên hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR[4]. Theo Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng từ 4,04 những năm 2001-2005 lên 6,08 những năm 2006-2010 và 6,25 những năm 2011-2015; hiện nay có giảm xuống, những vẫn còn hơn 6,0. So với các nước trong khu vực, đây là hệ số ICOR cao (Trong giai đoạn 2011-2015, hệ số ICOR của Phi-li-pin là 3,98; Ma-lai-xi-a là -5,05).

 

- Về cơ cấu kinh tế: Sự chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế những năm qua diễn ra đúng hướng, nhưng so với các nước trong khu vực, quá trình chuyển dịch còn chậm và khoảng cách khá xa so với yêu cầu của một nước công nghiệp (năm 2021 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%). Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế như hiện nay, phải mất khoảng gần 10 năm nữa thì Việt Nam mới giảm được tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản bằng với Thái Lan giai đoạn hiện nay (khoảng 8%).

 

- Về năng lực đổi mới, sáng tạo : Năm 2018, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới công bố xếp hạng về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (đánh giá về trình độ công nghệ của 126 quốc gia và vùng lãnh thổ), Việt Nam xếp thứ 45 thế giới, sau Xin-ga-po (xếp thứ 5 trong nhóm dẫn đầu), Ma-lai-xi-a (35) và Thái Lan (44). Tính sẵn có về công nghệ mới của Việt Nam đã tăng từ vị trí 133/142 trong năm 2011-2012 lên vị trí 112/144 năm 2017-2018 nhưng thấp hơn rất nhiều so với Ma-lai-xi-a (vị trí 35), Thái Lan (56), In-đô-nê-xi-a (67), Phi-li-pin (73) và thấp hơn cả Cam-pu-chia (93).

 

Khả năng tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục tụt dốc, từ xếp hạng 88 năm 2011-2012 xuống vị trí 93 trong năm 2017-2018, là quốc gia được xếp hạng có vị trí thấp nhất trong khu vực ASEAN, trong đó Ma-lai-xi-a xếp thứ 17, Phi-li-pin 51, In-đô-nê-xi-a 39, Thái Lan 42 và Cam-pu-chia 90.

 

Về hiệu quả chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, năm 2017 -2018 Việt Nam xếp thứ 89, giảm 27 bậc so với năm 2011-2012, trong khi Xin-ga-po xếp thứ 2, Ma-lai-xi-a 13, Thái Lan 40, In-đô-nê-xi-a 44, Cam-pu-chia 54, Hàn Quốc 55, Phi-li-pin 63. Về hiệu quả đổi mới, năm 2017-2018 Việt Nam xếp thứ 79 (tụt 21 bậc so với hạng 58 của năm 2011-2012), thấp hơn Ma-lai-xi-a (xếp thứ 14), Xin-ga-po (20), In-đô-nê-xi-a (31), Phi-li-pin (45), Thái Lan (69), chỉ cao hơn Cam-pu-chia (107).

 

ii). Về phát triển các thành phần kinh tế: Trong 10 năm qua, các thành phần kinh tế đã có sự phát triển đáng kể, song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhìn nhận tổng quát, cấu trúc các thành phần kinh tế còn những mặt bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; các thành phần kinh tế chưa phát huy thật sự hiệu quả vai trò khách quan của mình trong kinh tế thị trường (khu vực doanh nghiệp tư nhân còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP, doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện được thật tốt vai trò điều tiết của mình…); sự liên kết giữa các thành phần kinh tế (nhất là giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước) còn hạn chế, hiệu quả không cao.

 

           Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của DN năm 2018

 

H.suất
sử dụng lao động
(lần)

Chỉ số nợ
(lần)

C.số quay vòng vốn (lần)

H.suất sinhlợi trêntài sản ROA (%)

H.suấtsinh lợi / vốn chủ sở hữu ROE (%)

H.suất sinh lợi / doanh thu thuần- ROS
(%)

 

Toàn bộ doanh nghiệp

15,3

20,1

0,6

2,4

 

7,6

3,8

Phân theo loại hình DN

 

+ Khu vực DNNN

20,0

0,4

0,4

2,0

8,9

5,6

Trong đó: DN 100% vốn NN

21,3

0,3

0,5

2,2

7,3

5,0

+ Khu vực DN ngoài NN

16,1

0,9

0,7

1,6

4,5

2,4

+ Khu vực DNFDI

12,6

0,7

1,0

5,8

15,4

5,6

                                                               Nguồn TCTK

 

Nhìn tổng thể, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế tuy có được nâng lên, nhưng còn chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thấp hơn khá nhiều so với các doanh nghiệp FDI.

 

iii). Về phát triển lực lượng doanh nghiệp: Lực lượng doanh nghiệp đóng vai trò chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua đã có bước phát triển đáng kể về số lượng; tuy nhiên cho đến nay số lượng doanh nghiệp đang hoạt động bình quân cả nước mới có 8,3 doanh nghiệp trên 1.000 dân[5] (thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực), với tổng số khoảng 700 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh; trong đó lĩnh vực dịch vụ chiếm 67,1%. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng - 31,6%, lĩnh vực nông nghiệp - 6,3%. Việc số doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ chiếm gần 70% không có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam đã chuyển mạnh lên nền kinh tế dịch vụ trình độ cao; mà cho thấy đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, không đầu tư cho phát triển sản xuất dài hạn - trụ cột chủ yếu để phát triển bền vững của nền kinh tế.

 

Hơn nữa, trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, số doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ và nhỏ có số lượng lớn nhất và chiếm tỷ lệ cao nhất (khoảng 63% và 31%). Trong tổng số doanh nghiệp toàn quốc, số đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh chỉ chiếm 68,7%; trong đó: số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 42,7%; số doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn - 7,5%; số doanh nghiệp kinh doanh lỗ - 49,7%.  

 

Nhìn tổng thể, lực lượng doanh nghiệp trong nước chưa mạnh, tiềm lực mọi mặt (quy mô, vốn, công nghệ, nhân lực, trình độ quản lý, năng lực hội nhập quốc tế…) còn nhiều hạn chế; hơn nữa chỉ có khoảng 2000 trên hơn 700.000 doanh nghiệp của cả nước - tức khoảng hơn 0,2% tham gia sản xuất công nghiệp hỗ trợ, trong đó chỉ có  khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia[6]; điều này ảnh hưởng đáng kể đến việc đảm bảo và nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế.

 

iv). Tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài về vốn, công nghệ, thị trường; do đó tiềm ẩn rủi ro vì chịu tác động bởi các yếu tố kinh tế, chính trị bên ngoài. Khu vực doanh nghiệp FDI có đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam; tuy nhiên, đang cho thấy nền kinh tế nước ta phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư nước ngoài. FDI vào Việt Nam chủ yếu khai thác lao động chi phí thấp và các ưu đãi thuế, đất đai; nhiều dự án FDI hàm lượng công nghệ thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu; chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa phát triển năng lực sản xuất trong nước; trong khi ta chưa tận dụng được nhiều và có hiệu quả về chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nhân lực từ các doanh nghiệp FDI; các mối liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn thấp.

 

Các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% hàng hóa xuất khẩu của nước ta, trong đó phần lớn là sản phẩm chế biến chế tạo (kể cả công nghệ cao). Trong khi đó, các doanh nghiệp nội địa chủ yếu chiếm lĩnh ở các phân khúc gia công, lắp ráp, chế biến thô, giá trị gia tăng thấp. Độ mở của nền kinh tế rất lớn, lên tới 200% GDP (đứng thứ 2 trong Đông - Đông Nam Á và thứ 5 toàn cầu), vì vậy nền kinh tế Việt Nam đang trở nên dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài. Năm 2022 kinh ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ; nhưng trong đó doanh nghiệp FDI xuất siêu khoảng 42 tỷ USD, còn doanh nghiệp trong nước lại nhập siêu 30,7 tỷ USD (các năm trước đều có thực trạng như vậy). Điều này còn được thể hiện ở chất lượng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) của doanh nghiệp Việt thấp: mặc dù thứ hạng về độ mở của nền kinh tế rất cao (tỷ lệ giá trị xuất khẩu tham gia vào GVC tới 62,1%, gần bằng Singapore); nhưng trong đó xuất khẩu từ các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70%; sự tham gia vào GVC của Việt Nam đến từ việc tiêu thụ sản phầm từ bên ngoài (FVA) chiếm tới 51,1%, còn đến từ việc cung cấp sản phẩm ra bên ngoài (DVX) chỉ chiếm 11%. Các chỉ số chất lượng này kém hơn mức trung bình của ASEAN, kém hơn cả Thái Lan, Philippines, Lào, Campuchia (xem biểu đồ sau).

 

              Biểu đồ về tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu - GVC

 

            Nguồn: Cơ sở dữ liệu của OECD về thương mại và giá trị gia tăng

 

Xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài đến nay vẫn tập trung vào một số đối tác chính, điều này tiềm ẩn rủi ro bị phụ thuộc các đối tác này về kinh tế và chịu sức ép về những điều kiện không thuận khác. Việt Nam vẫn chịu thâm hụt thương mại lớn với một sổ đỗi tác như Trung Quốc, Hàn Quốc,... Các điều kiện liên quan đến sử dụng nhà thầu và/hoặc đầu vào nhập khẩu khi vay vốn từ nước ngoài và việc các thị trường nước ngoài hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam thông qua các hàng rào kỹ thuật trong bối cảnh gia tăng căng thẳng thương mại và chủ nghĩa bảo hộ có thể đặt ra thêm thách thức đối với việc quản lý nhập siêu của Việt Nam với một số thị trường chủ chốt, đặc biệt là Trung Quốc.

 

v). Về năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ: Nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam (do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất) còn nhiều hạn chế về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu, xuất xứ…, với hàm lượng giá trị gia tăng không cao, năng lực cạnh tranh thấp; mức độ tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) còn hạn chế (chuỗi giá trị toàn cầu hiện chiếm tới 66% giao dịch thương mại. Nhưng, mức độ nội địa hóa của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt 28% trong tổng kim ngạch thương mại, thấp hơn gần 2 lần so với Trung Quốc. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2018, Việt Nam chỉ tạo ra được 20,4 tỷ USD thông qua việc tham gia vào các GVC, xếp thứ 53 trên tổng số 174 quốc gia. Con số này chưa bằng 1/4 của Philippines với 84,8 tỷ USD (xếp thứ 34). Đồng thời, mức độ tham gia vào các công đoạn sản xuất tinh vi phức tạp của Việt Nam vẫn còn thấp.

 

Việc nền công nghiệp nội địa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu trong các khâu gia công - lắp ráp; trong trong khi năng lực làm chủ công nghệ, khả năng tự chủ và tính bền vững trong sản xuất và xuất khẩu thấp, điều này cỏ thể dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hiện nay, công nghiệp phụ trợ, sản xuất nguyên liệu trong nước kém phát triển, phần lớn máy móc, thiết bị, nguyên liệu, phụ tùng đều phải nhập khẩu.

 

III. Định hướng các giải pháp hoàn thiện thể chế để nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế

 

Để nâng cao năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế, cần phải thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp.

1. Nâng cao nhận thức về đảm bảo năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế

Cần đẩy mạnh đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cần nhận thức đúng, đẩy đủ và sâu sắc rằng năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế phải được thể hiện ở tiềm lực kinh tế của đất nước và của mỗi chủ thể sản xuất kinh doanh ngày càng được nâng cao, phát triển bền vững, không bị chi phối - lệ thuộc vào các đối tác nước ngoài về định hướng và chiến lược phát triển; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được nâng lên ngang tầm thế giới và khu vực; tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Muốn vậy, phải phát triển mạnh nội lực của nền kinh tế dân tộc gắn liền với sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Bảo đảm xử lý tốt mối quan hệ tương hỗ về lợi ích giữa nước ta với các đối tác trên thế giới, bảo vệ tốt lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý hiệu quả mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích bộ, ngành, địa phương, giữa lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh doanh và lợi ích của nhà nước, của toàn xã hội; giữa lợi ích chiến lược, lâu dài và lợi ích trước mắt; khắc phục tư duy lợi ích cục bộ, ngắn hạn.

 

2. Khắc phục những “ngộ nhận” về kinh tế thị trường[7] và tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường trong hội nhập quốc tế

 

 i). Coi KTTT gắn liền với bản chất của CNTB, và do đó những khuyết tật, yếu kém, bất cập, khủng hoảng chu kỳ, những tệ nạn…nảy sinh trong kinh tế thị trường quy gắn liền với bản chất của CNTB. Coi KTTT về cơ bản và lâu dài không dung hợp với CNXH, việc vận dụng KTTT chỉ là sách lược “thích ứng” trong một giai đoạn nào đó ở các nước phát triển theo định hướng XHCN.

 

ii). Coi KTTT chỉ đơn giản là hệ thống kinh tế về những hoạt động sản xuất kinh doanh và trao đổi hàng hóa, dịch vụ; mà không thấy rõ đó còn là hệ thống các giá trị văn hóa, tinh thần và đạo đức phát triển, là hệ thống sáng tạo đổi mới liên tục, thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục - đào tạo, tạo ra của cải xã hội ngày càng tăng, mang lại sự thịnh vượng xã hội. Là hệ thống pháp luật về tất cả các lĩnh vực liên quan chứa đựng trong lòng nó những nhân tố tiến bộ về quyền bình đẳng, khuyến khích sự sáng tạo - đổi mới và những quá trình thử sai - đào thải được gọi là “phá hủy sáng tạo” (Mác gọi là phủ định biện chứng) để thúc đẩy phát triển. Đó còn là nền văn hóa KTTT tôn vinh những người dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, tôn vinh những nhà khoa học dấn thân có những sáng kiến và sáng tạo mang đầy tính văn hóa, phục vụ cho sự phát triển của xã hội, vì con người.

 

iii). Coi KTTT, cơ chế thị trường chỉ mang bản chất “lạnh tanh tiền bạc”, là vô đạo đức không quan tâm tới luân thường đạo lý (chỉ nghĩ và hành động vì lợi ích, lợi nhuận, bất chấp những giá trị tốt đẹp về con người, về văn hóa và xã hội. KTTT khuyến khích thói tham lam và ích kỷ…). Không thấy rõ văn hóa và đạo đức KTTT lành mạnh không chấp nhận nguyên tắc cướp bóc và chiếm đoạt phi pháp, tức là những biện pháp mà những kẻ giầu có hoặc dùng quyền lực chính trị để tước đoạt (chiếm đoạt) của người khác; không phân biệt KTTT hoạt động trên cơ sở chế độ pháp quyền, tự do và bình đẳng sản xuất kinh doanh theo pháp luật, và KTTT “ô dù” (gắn với CNTB thân hữu, bị biến dạng bởi những kẻ đầu tư bất chính và những kẻ cầm quyền tha hóa vì những lợi ích trái pháp luật và đạo đức).

 

iv). Cho rằng KTTT, cơ chế thị trường tạo ra nhiều bất bình đẳng hơn là trong thể chế kinh tế phi thị trường (bao cấp). Thị trường không có khả năng cung ứng hiệu quả được hàng hóa công cộng (tập thể), không thể đáp ứng tốt được một số nhu cầu cơ bản của con người, như chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giáo dục và lương thực; chỉ có Nhà nước với cơ chế bao cấp mới thực hiện tốt nhiệm vụ này. Thị trường chỉ có lợi cho người giàu, làm cho chênh lệch giàu nghèo càng ngày càng tăng lên.

 

v). Quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường (phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tư nhân hóa và thiết lập quan hệ thị trường) ở các nước hậu XHCN (cũ) tất yếu song hành với nạn tham nhũng, nghĩa là thị trường là tham nhũng.

 

vi). Coi KTTT, cơ chế thị trường là vạn năng, có thể giải quyết được mọi vấn đề; chỉ cần hoàn thiện khung pháp lý về thể chế kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các loại thị trường là có được một nền KTTT hiện đại. Không thấy được nền kinh tế thị trường ở một nước cụ thể là thể hiện trình độ phát triển của nước đó trong một giai đoạn cụ thể; thể chế kinh tế thị trường phải được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội hóa nền sản xuất xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể, gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế.

 

vii). Xem xét vai trò của Thị trường và vai trò của Nhà nước theo nguyên tắc “bập bênh”, nghĩa là bên này tăng lên thì bên kia giảm xuống và ngược lại. Không xem xét kỹ vai trò của Nhà nước và vai trò của Thị trường theo nguyên tắc kết hợp mặt mạnh của Nhà nước và mặt mạnh của thị trường, hạn chế “thất bại” của Nhà nước và “thất bại” của Thị trường trong những điều kiện và trình độ phát triển cụ thể nói chung và đối với từng lĩnh vực nói riêng.

 

viii). Coi tính định hướng XHCN chỉ (hay chủ yếu) nằm ở chính sách xã hội và chính sách phân phối, vì vậy đối với quá trình sản xuất kinh doanh Nhà nước cần giảm tối đa sự can thiệp, để cơ chế thị trường tự do điều tiết; Nhà nước chỉ cần (hay chủ yếu) tập trung vào hoàn thiện các chính sách xã hội và chính sách phân phối.

 

Cẩn thấy rằng tính định hướng XHCN phải được thực hiện thông qua đồng bộ ở khung khổ pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển, thể chế phát triển ở tất cả các lĩnh vực, đảm bảo cho mọi chủ thể trong xã hội, nhất là các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh ở mọi thành phần kinh tế, hoạt động năng động, sáng tạo, hiệu quả, góp phần xứng đáng vào thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải có sự đột phá về nhận thức - tư duy lý luận (đi trước), khắc phục những “ngộ nhận” nêu trên, gắn liền với thể chế hóa thành nền tảng pháp lý và tổ chức thực hiện trong thực tiễn, để tạo động lực phát triển nhanh - bền vững đất nước, đó cũng là cơ sở để nâng cao năng lực độc lập - tự chủ trong hội nhập quốc tế.

 

3. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa: Hiện đại hóa nền kinh tế trên cơ sở ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường, tận dụng có hiệu quả cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra.

 

Xây dựng và thực thi có hiệu quả thể chế mang tính vượt trội - hội nhập quốc tế để kịp thời đón nhận và phát triển các phương thức, mô hình, hình thức kinh tế, sản xuất kinh doanh mới (đang hình thành và phát triển rất nhanh như nền kinh tế số, nền kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng Blockchain...), sự chuyển dịch các chuỗi cung ứng; thúc đẩy đổi mới - sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào trong sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực nền tảng, chủ lực, mũi nhọn, và vào các lĩnh vực của đời sống xã hội (để không rơi vào tình trạng mãi chạy theo sau công nghệ, bị công nghệ hiện đại loại ra khỏi sân chơi). Gắn hữu cơ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; coi bảo vệ môi trường là một giá trị trong phát triển kinh tế - xã hội.

 

4. Đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện đồng bộ và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường theo hướng hiện đại, hiệu quả, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của Việt Nam và hội nhập quốc tế trong mỗi bước phát triển, tập trung vào những nội dung quan trọng sau:

 

Hoàn thiện thể chế để giữ vững ổn định và nâng cao chất lượng kinh tế vĩ mô. Thống nhất nhận thức, xác định rõ hơn các đặc trưng và tiêu chí của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các nguyên tắc chung của nền kinh tế thị trường hiện đại, đồng thời chứa đựng những giá trị đặc trưng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, hội nhập có hiệu quả với thế giới.

 

Hoàn thiện thể chế để thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội theo nguyên tắc “nhà nước mạnh - thị trường hiệu quả - doanh nghiệp, người dân và xã hội năng động, sáng tạo” (cụ thể hơn là: Nhà nước pháp quyền kiến tạo phát triển - thị trường hiện đại, phù hợp, hiệu quả - các chủ thể sản xuất kinh doanh mà trung tâm là các doanh nghiệp năng động, sáng tạo).

 

Hoàn thiện đồng bộ hệ thống phát luật, cơ chế, chính sách; khắc phục những “điểm nghẽn”, “nút thắt”, mâu thuẫn, bất cập, không phù hợp thực tiễn trong thể chế phát triển kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện và thủ tục sản xuất kinh doanh, gắn với đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp sáng tạo, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng. Phấn đấu sớm đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia hàng đầu về năng lực cạnh tranh toàn cầu.

 

Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế đa sở hữu, nhất là thể chế sở hữu đất đai (chế định rõ quyền sử dụng đất đai là quyền tài sản được luật pháp bảo hộ); hoàn thiện thể chế quản lý tài sản công trong hệ thống chính trị; chế định đúng, công khai, minh bạch quyền, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của từng chủ thể, nhất là nhà nước với vai trò vừa là đại diện chủ sở hữu toàn dân, đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước, lại là một chủ thể sử dụng; chế định rõ, đầy đủ các chế tài để buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải thực hiện đúng, bảo vệ quyền tài sản, quyền sản xuất kinh doanh và lợi ích chính đáng của các chủ thể, khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực, sử dụng kém hiệu quả, để thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lành mạnh, hiệu quả.

 

 5. Đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, trọng tâm là đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tăng nhanh quy mô và nội lực của nền kinh tế quốc gia.

 

Xây dựng và thực thi có hiệu quả cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu dựa trên đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao, thúc đẩy mạnh khởi nghiệp sáng tạo. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu và nâng cao chất lượng hệ thống doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu và nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư (nhất là hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, sử dụng tài sản công). Xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, như một bộ phận hợp thành hữu cơ của thể chế phát triển theo chiều sâu của đất nước.

 

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, gắn với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực; đồng thời gắn liền với đó là nghiên cứu xây dựng và đổi mới hệ thống quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối…) phù hợp, hiệu quả, thích ứng với yêu cầu của bước phát triển cao hơn và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể, theo hướng có sự chia sẻ về trách nhiệm, quyền lợi, rủi ro... để tạo lập các chuỗi sản xuất kinh doanh, chuỗi giá trị bền vững.

 

6. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy xây dựng nền kinh tế dân tộc mạnh trên cơ sở phát huy có hiệu quả cao vai trò khách quan, ưu thế, sức mạnh và hiệu quả của tất cả các khu vực, chủ thể và lực lượng kinh tế.

Đề cao, coi trọng và đẩy mạnh phát triển hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân. Hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân cả về quy mô và chất lượng, phát triển theo chiều sâu, trở thành một động lực trọng yếu phát triển nền kinh tế đất nước; hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp lớn, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đủ sức tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế nhà nước; đẩy mạnh tái cơ cấu và hoàn thiện thể chế quản lý - quản trị doanh nghiệp nhà nước, theo hướng xác định rõ vai trò, chức năng, mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước trong từng lĩnh vực và trong từng giai đoạn; trên cơ sở đó xác định rõ mục tiêu, cơ chế, chính sách để đẩy mạnh cổ phấn hóa, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động đối với từng loại doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong đó lực lượng kinh tế nhà nước đóng vai trò quan trọng để nhà nước thực hiện tốt vai trò định hướng điều tiết của mình. Hoàn thiện thể chế để kết nối các khu vực kinh tế, các chủ thể kinh tế trở thành một thực thể hữu cơ, gắn kết với nhau, thúc đẩy phát triển mạnh nội lực nền kinh tế dân tộc, trong đó coi trọng phát triển hợp tác - đối tác công tư nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao tính độc lập - tự chủ của nền kinh tế, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào đầu tư FDI và thị trường nước ngoài.

 

Hoàn thiện thể chế để khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân dân tộc (trong đó có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo) biết gắn sự phát triển và lợi ích của mình với sự phát triển và lợi ích của dân tộc, là lực lượng chủ lực góp phần quan trọng vào hội nhập và "định vị" nền kinh tế Việt Nam trên thế giới.

 

7. Hoàn thiện thể chế về thu hút và phát triển doanh nghiệp FDI trong giai đoan mới

Điều chỉnh định hướng chiến lược, cơ chế, chính sách, mục tiêu và tiêu chí thu hút FDI, đón nhận quá trình chuyển dịch các chuỗi cung ứng trong giai đoạn mới, phù hợp và hiệu quả trong từng lĩnh vực, theo hướng ứng dụng công nghệ cao để nâng cao chất lượng và hiệu quả tổng hợp đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước; liên kết có hiệu quả với các doanh nghiệp trong nước, đa dạng hóa nguồn cung, cầu; giảm dần tỷ trọng gia công lắp ráp với trình độ công nghệ thấp và trung bình. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để khắc phục tình trạng chuyển giá, "lỗ giả lãi thật". Hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy kết nối có hiệu quả các doanh nghiệp Việt với các doanh nghiệp FDI trong việc phát triển công nghiệp phụ trợ, cung ứng đầu vào và tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

 

8. Hoàn thiện thể chế hội nhập kinh tế quốc tế gắn với bảo vệ nền kinh tế dân tộc

Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế theo những quy tắc và chuẩn mực cao, đáp ứng các yêu cầu của các FTA thế hệ mới, nhằm thúc đẩy phát triển và phát huy tối đa nội lực, tận dụng các cơ hội và kết hợp có hiệu quả với các xu thế phát triển của thế giới, tham gia ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn vào các chuỗi giá trị, chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu; thích ứng có hiệu quả cao với hàng rào kỹ thuật mà các nước đặt ra; bảo vệ sở hữu trí tuệ, thương hiệu sản phẩm hành hóa của đất nước; phòng chống có hiệu quả gian lận thương mại, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Đồng thời xây dựng và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo vệ nền kinh tế dân tộc trong quá trình hội nhập. Nâng cao năng lực dự báo và năng lực phản ứng chính sách trước những tác động của biến đổi thế giới và khu vực, nhất là tác động của các cuộc chiến tranh “nóng”, chiến tranh - cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn, và sự suy giảm tăng trưởng toàn cầu, quá trình tái cấu trúc kinh tế toàn cầu đối, với sự phát triển của Việt Nam trong những năm tới, trên cơ sở đó có những kịch bản hội nhập và ứng phó hiệu quả.

 

Xây dựng và hoàn thiện mô hình và thể chế phát triển thích ứng có hiệu quả với trạng thái biến động đột biến, khó lường trên thế giới hiện nay. Để phát triển bền vững, Việt Nam phải đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đa dạng hóa các thị trường quốc tế, không để phụ thuộc quá lớn vào một số đối tác; đẩy mạnh phát triển tiềm lực kinh tế dân tộc, nhất là lực lượng doanh nghiệp Việt, tham gia nhiều hơn và có hiệu quả vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao trong các chuỗi cung ứng toàn cầu; đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa (không thể để kéo dài tình trạng sự phát triển nền kinh tế của đất nước phụ thuộc quá lớn cả đầu vào, đầu ra vào thị trường bên ngoài), coi đây là một nền tảng - động lực để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

(Hết)

PGS.TS Trần Quốc Toản

(Sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chình sách của Việt Nam; mã số KX.04.08/21-25).


[1] GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017 tương đương với GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2003.

[2] Chi phí trung gian là một thuật ngữ trong thống kê Tài khoản quốc gia, phản ánh giá trị hàng hóa và dịch vụ sử dụng hết trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm mới trong một thời kỳ nhất định. Chi phí trung gian tính theo ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Chi phí trung gian không đồng nhất với chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ chi phí trung gian tính toán từ bảng IO và SUT của Việt Nam và các nước.

[3] Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Xin-ga-po tăng từ 119.117 USD năm 2008 lên 131.192 USD năm 2017; tương tự, của Ma-lai-xi-a từ 43.731 USD lên 45.295 USD; Thái Lan từ 14.930 USD lên 18.071 USD; In-đô-nê-xi-a từ 10.451 USD lên 13.555 USD; Phi-li-pin từ 6.609 USD lên 8.385 USD (Nguồn số liệu: Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới).

[4] Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ICOR thường tính cho giai đoạn vì: (1) Hiệu quả đầu tư thường có độ trễ; (2) Nếu tính hệ số ICOR cho 1 năm riêng lẻ, đồng thời tăng trưởng của năm đó âm (-) thì kết quả không có ý nghĩa (Ví dụ trong trường hợp của Ma-lai-xi-a năm 2009 có tăng trưởng GDP là -1,51%, dẫn đến ICOR của năm này là -11,78%).

[5] Tổng cục Thống kê, Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2021, 2020.

[6] An Nhiên: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những bước chuyển mình tích cực; Bộ Công thương, thứ 2, 09/05/2022.

Tỉ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của DN Việt Nam thuộc điện tử 5-10%; da giày 30%; dệt may 30%; cho công nghệ cao đạt khoảng 1-2%; cơ khí chế tạo khác khoảng 15-20%...; Ngành chế tạo ô tô đạt khoảng 5-20%, tuy nhiên, hiện nay, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít: Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, nhưng Việt Nam chỉ có chưa đến 100. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có chưa đến 150; giá trị sản xuất của công nghiệ hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp.

[7] Xem thêm: Tom G. Palmer, Thị trường và đạo đức; NXB Tri thức, 2014

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết