Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên quan tâm đến giáo dục, y tế về thể dục thể thao...Đảng từng bước hình thành và dần dần ổn định mô hình tổ chức của cơ quan giúp việc cho Trung ương về lĩnh vực Khoa giáo. Ban Giáo dục là tổ chức tiền thân của Ban Khoa giáo Trung ương ra đời khi có Quyết định của Thường vụ Đảng số 55-QĐ/TW “về tổ chức Ban Tuyên truyền và Ban Giáo dục Trung ương Đảng” vào ngày 14/9/1950 [1]. Với mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, ngày 11/11/1954 Ban Bí thư TW Đảng khóa II ra Quyết định số 50-NQ/TW “thành lập Tiểu ban Y học Trung ương để lãnh đạo chặt chẽ hơn nữa công tác y tế”. Thấy rõ tầm quan trọng của khoa học công, ngày 24/5/1957 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa II ra Nghị quyết số 14-NQ/TW “thành lập Tiểu ban Giáo dục-khoa học Trung ương và chấn chỉnh sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác Giáo dục”. Nhằm tăng cường hơn nữa công tác văn nghệ, giáo dục, y tế nên ngày 23/8/1958, Ban Bí thư đã ra Nghị quyết số 50-NQ/TW “giải thể các tiểu ban Tiểu ban Giáo dục - khoa học Trung ương, Tiểu ban Văn nghệ Trung ương, Tiểu ban Y học Trung ương và thành lập Ban Văn hóa – Giáo dục Trung ương”. Tiếp đến, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kì cách mạng, Đảng đã có các quyết định sau: Tháng 12/1959, Ban Bí thư Trung ương Đảng quyết định hợp nhất hai ban Tuyên huấn, Văn giáo thành Ban Tuyên giáo Trung ương; Ngày 30/1/1968 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 1584-NQ/TW chia Ban Tuyên giáo Trung ương làm hai Ban. Ban Khoa giáo Trung ương chính thức được thành lập; Ngày 11/4/2007, Bộ Chính trị ra Quyết định số 44-QĐ/TW hợp nhất Ban Khoa giáo Trung ương, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương.
Điểm lại đôi nét lịch sử Khoa giáo, cho thấy quá trình trên cũng là một thành tựu trong việc tổ chức mô hình cơ quan tham mưu cho Đảng về công tác khoa giáo - mô hình phù hợp với thực tiễn và bám sát yêu cầu của cách mạng. Lĩnh vực Khoa giáo bao gồm các ngành: giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường, công nghệ thông tin, y tế-dân số, thể dục thể thao, gia đình, trẻ em...Với phạm vi hoạt động rộng, báo cáo không có khả năng trình bày tổng hợp thành tựu chung theo sự phát triển của lịch sử Đảng, mà sẽ viết về riêng từng mặt công tác. Tham luận tác giả dùng khái niệm “công tác Khoa giáo”, “Khoa giáo” như chủ ngữ của mệnh đề đồng nghĩa với việc tham mưu của Ban Khoa giáo trước đây, của các Vụ thuộc lĩnh vực Khoa giáo của Ban Tuyên giáo hiện nay và cũng hàm ý là những kết quả cơ bản đã đạt được.
1.Định hướng đường lối phát triển về giáo dục: từ Xóa mù chữ cho đến đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực quan trọng, được Đảng thường xuyên quan tâm, vì vậy có thể nói đó là mặt hoạt động lớn nhất của công tác Khoa giáo. Những vấn đề chủ yếu được Ban Khoa giáo nghiên cứu, đầu tư trí tuệ để giúp Trung ương lãnh đạo gồm: xác định mục tiêu chung của giáo dục, làm tốt công tác xây dựng Đảng trong các trường học; quán triệt nguyên lý giáo dục; xây dựng những mô hình trường lớp thích hợp với từng vùng, từng miền; chính sách công bằng xã hội, đổi mới giáo dục...Trên tinh thần đó, công tác giáo dục đã có các kết quả dưới đây.
1) Chỉ đạo việc Xóa mù chữ và Phổ cập giáo dục hoàn thành đúng tiến độ, mở ra cánh cửa tri thức, mang lại sự phát triển bền vững.
Nhìn thấy rõ bản chất của nền giáo dục thực dân, khi hoạt động cách mạng ở Pháp, năm 1919 Nguyễn Ái Quốc đã đưa yêu sách "tự do học tập cho người bản xứ". Năm 1921, trong tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp, Người đã vạch rõ chính sách ngu dân của thực dân Pháp là “làm cho dân ngu để dễ cai trị”[2]. Từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở một số lớp học quốc ngữ và lớp học chính trị cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với khoảng 30 học viên. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, lúc cao trào cách mạng 1930 - 1931 đang lên, Đảng vẫn chỉ đạo đẩy mạnh công cuộc chống nạn thất học. Trong những năm 1936 - 1939 tình hình chính trị thuận lợi, có điều kiện hoạt động công khai một phần, Đảng cho xuất bản nhiều sách, báo. Ngày 29-7-1938, Đảng thành lập Hội truyền bá quốc ngữ với mục đích “dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của mình để tiếp thu được những điều thường thức cần dùng cho sự sinh hoạt hằng ngày”. Đến khi Mặt trận Việt Minh được thành lập (tháng 5-1941), trong chương trình hành động, Mặt trận đã ghi "chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp". Nhưng chỉ đến năm 1945, nhân dân ta mới thật sự bắt đầu được hưởng nền quốc học của dân và vì dân. Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3-9-1945 Chính phủ họp phiên đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ và Người nói: "Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ..."[3]. Ngay sau đó ngày 08/9/1945 Chính phủ đã ban hành ba sắc lệnh về chống nạn thất học: Sắc lệnh số 17: thành lập Bình dân học vụ. Sắc lệnh số 19: quy định hạn trong 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng phải có lớp học ít nhất 30 người theo học. Sắc lệnh số 20: quy định việc học chữ quốc ngữ bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ..
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Sắc lệnh của Chính phủ, năm học 1945 - 1946, nền giáo dục Việt Nam đã chuyển sang một bước ngoặt mới, đó là một nền giáo dục cách mạng của dân và vì dân. Chiến dịch chống mù chữ lần thứ nhất được phát động và tiến hành đồng thời với chống giặc đói, chống giặc ngoại xâm. Tháng 4-1947, Trung ương Đảng ra Nghị quyết về giáo dục với nội dung: "...Tiếp tục phát triển bình dân học vụ. Chú ý mở trường ở các vùng quốc dân thiểu số"[4]. Hòa bình lập lại ở miềm Bắc năm 1954, bình dân học vụ, bổ túc văn hóa tiếp tục mở rộng. Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1979, Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị, có đoạn nói “tiếp tục phong trào xóa mù chữ và phổ cập tiểu học..”.
Đến ngày 28/12/2000, Việt Nam tuyên bố với thế giới đã hoàn thành công cuộc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học với hơn 94% người biết chữ. Hơn 90% trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp bậc tiểu học. Đây là thành tựu to lớn của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ ra thành tựu của giáo dục: "Giáo dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học"[5]. Ngày 05/12/2011 Bộ Chính trị khóa XI ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW, “về việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho người lớn”. Do thực hiện tốt Chỉ thị số 10, giáo dục phổ thông có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là giáo dục mầm non đã có những tiến bộ vượt bậc. Kết quả thực hiện nói trên thể hiện rõ nét vai trò lãnh đạo và hiệu lực quản lý nhà nước của các cấp ủy và chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng về công tác phổ cập giáo dục ở các địa phương đã được tăng cường; công tác tuyên truyền vận động, kịp thời biểu dương người tốt, việc tốt đã làm tốt. Có được thành tựu trên chính là do đóng góp rất lớn của Khoa giáo Trung ương từ việc tham mưu Xóa mù chữ, phổ cập giáo dục cho đến chủ trì đề án Xóa mù chữ cũng như tham gia Ban chỉ đạo phổ cập giáo dục.[6]
2) Tham mưu với Trung ương và chỉ đạo thực hiện thành công ba cuộc cải cách giáo dục
Sau khi thành lập Ban Văn hóa Trung ương đầu năm 1950, Trung ương Đảng chủ trương tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất, xây dựng hệ thống giáo dục của nước Việt Nam dân chủ Công hòa, thực hiện hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm cả trong vùng tự do và vùng tạm chiếm. Năm 1950 sau khi Ban Giáo dục Trung ương Đảng ra đời, Ban đã tham mưu cho Đảng về xây dựng đưòng lối phát triển giáo dục, vừa đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến vừa chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ cao để xây dựng đất nước sau này. Tháng 2/1951, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II được tổ chức, trong Chính cương của Đảng đề ra nhiệm vụ chủ đạo của giáo dục là thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở các trường chuyên nghiệp.
Mục đích của cải cách giáo dục lần thứ nhất là phải hủy bỏ triệt để nền giáo dục nô lệ cùng với những tàn dư của nó về nội dung, về phương pháp; phải xây dựng cơ sở tư tưởng mới về nền giáo dục dân chủ nhân dân theo những thiết chế giáo dục và hệ thống tổ chức giáo dục tương ứng. Mục tiêu đào tạo của nhà trường là bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người công dân lao động tương lai, trung thành với chế độ dân chủ nhân dân và có đủ phẩm chất năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Nền giáo dục của nước Việt Nam dân chủ Công hòa là của dân, do dân, vì dân; đảm bảo nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng phục vụ lợi ích của nhân dân Việt Nam, đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập và ruộng đất cho dân cày. Hệ thống giáo dục phổ thông gồm ba cấp học: Cấp I: 4 năm (lớp 1, 2, 3 và 4) thay thế cho bậc tiểu học cũ. Cấp II: 3 năm (lớp 5, 6 và 7) thay thế cho bậc trung học phổ thông cũ 4 năm. Cấp III: 2 năm (lớp 8 và 9) thay thế cho bậc trung học chuyên khoa cũ 3 năm. Cải cách giáo dục lần thứ nhất đã thay đổi cơ bản nền giáo dục cũ. Khẳng định tư tưởng chỉ đạo giáo dục, các quan điểm của giáo dục xã hội chủ nghĩa của Đảng. Cải tạo nền giáo dục cũ với việc cấu trúc lại chương trình, phát triển mạnh mẽ nền giáo dục mới bằng cách bổ sung thêm những ngành học mới, sắp xếp lại các trường sư phạm, các trường cao đẳng; đồng thời đưa ra được những giải pháp để phát triển giáo dục, nhằm bảo đảm việc đào tạo cho học sinh, sinh viên. Kết quả của cải cách giáo dục đã đóng góp trực tiếp cho công cuộc kháng chiến và trên thực tế đã góp phần chuẩn bị ở mức độ cần thiết về lực lượng cán bộ cho những giai đoạn sau.
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam phải tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong tình hình ấy nhiệm vụ cách mạng mới đã đặt ra cho nền giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Năm 1956, Ban Giáo dục đã tham mưu với Đảng tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai đặt cơ sở cho việc thành lập hệ thống giáo dục quốc dân theo tính chất giáo dục xã hội chủ nghĩa. Tháng 3/1956, Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc đã họp thông qua đề án của Bộ Giáo dục, sáp nhập hai hệ thống giáo dục cũ (9 năm và 12 năm) lập ra hệ thống giáo dục 10 năm, trong đó gồm: Cấp I (4 năm) lớp 1, 2, 3, 4. Cấp II (3 năm) lớp 5, 6, 7. Cấp III (3 năm) lớp 8, 9, 10. Hệ Bổ túc văn hóa cũng có các cấp học tương đương và các trường trung học và dạy nghề. Nhiệm vụ của chương trình giáo dục, cải cách giáo dục lần thứ hai này đặt ra là phải coi trí dục là cơ sở và tăng cường giáo dục tư tưởng và giáo dục đạo đức, coi trọng việc giảng dạy tri thức có hệ thống, tiến hành giáo dục cho thanh niên và thiếu nhi về bốn mặt: đức dục, trí dục, thể dục và mỹ dục.
Đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Đảng chủ trương chuẩn bị cho cuộc cải cách giáo dục mới, sau nhiều lần góp ý và sửa chữa của đầu những năm 70, đề án cải cách giáo dục đã hoàn thành, nhưng phải hoãn thực hiện vì tình hình trong nước và quốc tế. Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng vạch ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội khi đất nước đã độc lập và thống nhất. Để tiếp tục phát triển giáo dục, Đại hội IV quyết định phải "tiến hành một cuộc cải cách giáo dục rộng lớn trong cả nước, làm cho giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa". Thành tựu nổi bật của cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (bắt đầu từ năm 1981) là thống nhất hai hệ thống giáo dục với sự xác lập quan điểm giáo dục xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Đồng thời xây dựng được một bộ chương trình và bộ sách giáo khoa mới các môn học từ lớp 1 đến lớp 12, đóng góp quan trọng vào việc thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trong cả nước. Cải cách lần ba cũng đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động mới, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có trình độ khoa học, kỹ thuật và quản lý phù hợp với yêu cầu phân công lao động trong nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
3) Xác định Giáo dục-Đào tạo[7] là quốc sách hàng đầu và định hướng đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đưa ra đường lối đổi mới. Văn kiện Đại hội đã xác định mục tiêu của giáo dục là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu khóa VI về công tác giáo dục yêu cầu công tác giáo dục phải hướng trọng tâm vào việc từng bước ổn định tình hình giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đề ra nhiệm vụ chủ yếu của ngành Giáo dục là: Đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đại hội xác định: "Phát triển sự nghiệp khoa học, giáo dục, văn hóa nhằm phát huy nhân tố con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". "Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt..., là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới"[8]. Như vậy là tư duy về giáo dục của Đảng được đổi mới, không coi giáo dục chỉ thuộc phạm trù của cách mạng tư tưởng-văn hóa, mà giáo dục giữ vị trí trọng yếu đối với cả ba cuộc cách mạng. Chiến lược giáo dục là một bộ phận của chiến lược con người, mà chiến lược con người nằm ở vị trí trung tâm của toàn bộ chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, chỉ có đầu tư thỏa đáng cho giáo dục thì đất nước mới phát triển bền vững. Nghị quyết Trung ương 4 khẳng định quan điểm "coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển". [9]
Tháng 12/1996, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai khóa VIII ban hành Nghị quyết Trung ương "Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000". Nghị quyết nêu những tư tưởng chủ đạo và mục tiêu cơ bản để phát triển giáo dục là: xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa biết kế thừa, tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc vừa làm chủ tri thức và khoa học, công nghệ hiện đại; giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách trong công bằng xã hội; thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học, công nghệ, thực hiện công bằng trong giáo dục, đào tạo; giữ vai trò nòng cốt của trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo.
Năm 2002, tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa IX của Đảng ban hành Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục - đào tạo. Kết luận đánh giá, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, nền giáo dục nước nhà có bước phát triển mới. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học ở một số tỉnh, thành phố, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã hội quan tâm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng chủ trương: Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng tiếp tục đường lối đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Ngày 4/11/2013, Đảng ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Đảng tiếp tục khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội là chủ trương được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Chủ trương này nói lên quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đưa giáo dục nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, một mặt góp phần tích cực vào việc thực hiện một trong các đột phá chiến lược là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, mặt khác đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho ai cũng được học và học suốt đời.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Một diểm quan trọng trong Nghi quyết là cần “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc”.
Sau gần 7 năm thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW[10], Trung ương đánh giá Nghị quyết số 29-NQ/TW được triển khai tích cực, đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở và từng bước đi vào cuộc sống, sự nghiệp GD&ĐT nước ta đã đạt được một số kết quả quan trọng, được các tổ chức giáo dục quốc tế đánh giá cao[11]. Các mục tiêu đang trong quá trình triển khai và thu được một số kết quả bước đầu. 09 nhiệm vụ và giải pháp được tiến hành khá đồng bộ, đạt kết quả quan trọng. Bộ GD-ĐT đã ban hành Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể; chương trình các môn học và đang viết sách giáo khoa mới cho năm học 2020-2021.
2. Chủ trương xây dựng, phát triển khoa học - công nghệ là nền tảng, là động lực và khâu đột phá của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, Đảng đưa ra định hướng chiến lược, cơ chế và chính sách phát triển khoa học và công nghệ. Trong hầu hết các văn kiện của các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng đều đề cập đến những chủ trương, chính sách phát triển khoa học và công nghệ. Để cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện đường lối của Đảng trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công tác Khoa giáo đã có những đóng góp:
1) Tham mưu kịp thời nhiều Nghị quyết về khoa học công nghệ góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác khoa giáo của Đảng đặc biệt chăm lo đến sự phát triển của các lĩnh vực khoa học, bắt đầu từ khoa học xã hội - nhân văn đến khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học nông nghiệp, khoa học y-dược. Tùy theo nhiệm vụ trọng tâm của từng thời kỳ, bộ phận khoa giáo luôn tham mưu cho Đảng đề ra những yêu cầu cụ thể với lĩnh vực nghiên cứu. Ngay từ năm 1945, trước nhu cầu nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, Đảng đã chủ trương phát triển một số ngành đào tạo thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn cũng như khoa học y-dược, tự nhiên và kỹ thuật, chú ý đến nâng cao dân trí và xây dựng nền văn hóa. Thời kì này “văn hóa” bao gồm cả giáo dục và khoa học[12], theo tinh thần “khoa học hóa, đại chúng hóa và dân tộc hóa”[13].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng đặt vấn đề đào tạo cán bộ khoa học, xây dựng nền khoa học Việt Nam được đưa vào nhiệm vụ chính của nhiệm kỳ Đại hội. Để đẩy mạnh hoạt động của khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội, ngày 2/12/1953, Ban Bí thư Trung ương đã ra Quyết nghị số 32 -QN/TW về việc thành lập Ban nghiên cứu văn học, lịch sử, địa lý (gọi tắt là Ban Văn – Sử - Địa), trực thuộc Ban chấp hành Trung ương và có chức năng nghiên cứu, sưu tầm tài liệu phục vụ cho việc giáo dục lý tưởng, truyền thống cách mạng[14]. Cuối năm 1957, Khoa giáo tham mưu cho ban Bí thư thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 khóa III thảo luận và thấy cần thiết phải tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mở ra một trang sử mới, Ban Khoa giáo Trung ương phối hợp với Ban Nông nghiệp Trung ương tham mưu với Ban Bí thư ra Thông tri số 318-TT/TW, ngày 17-5-1975, “về việc đưa cán bộ kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ tăng cường cho huyện” nhằm tăng cường năng lực cấp huyện và hợp tác xã. Ngày 30/3/1991 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VI ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về Khoa học và Công nghệ trong sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết chỉ ra: “Khoa học và công nghệ không chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và là cơ sở để củng cố và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo và vị trí tiên phong của Đảng”; Đến Nghị quyết Trung ương 7 khóa VII đề ra quan điểm quan trọng là “khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH). Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”.
Nghị quyết Đại hội VIII xác định: cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Ban Khoa giáo phối hợp với Ban cán sự Đảng Bộ Khoa học Công nghệ - Môi trường (KHCNMT) tham mưu để Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai (khóa VIII) ban hành Nghị quyết 02-NQ/HNTW ngày 26/12/1996 “về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 và những nhiệm vụ đến năm 2000”. Ban Khoa giáo đã chỉ đạo các bộ ngành thưc hiện khá tốt NQ 02-NQ/HNTW và được đánh giá sau khi thực hiện nghị quyết thì các lĩnh vực có chuyển biến: Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ trọng điểm và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai. Khoa học - công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo những công nghệ nhập khẩu, từng bước tạo ra công nghệ mới. Đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá). Tạo thị trường cho KH&CN, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng KH&CN với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ.
Bước vào Thế kỷ 21, với nhận thức sâu sắc về công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội thế giới hiện đại; Do đó, Ban Khoa giáo tham mưu cho Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII ban hành Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (năm 2011) và gần đây là Nghị quyết số 20-NQ/TW được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng nêu: “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng lại một lần nữa khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh”.
2) Chỉ đạo Khoa học xã hội và nhân văn hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Lịch sử đã chứng tỏ sự phát triển của khoa học tự nhiên và tiến bộ kỹ thuật bao giờ cũng diễn ra trong sự tác động qua lại chặt chẽ với sự phát triển của khoa học xã hội. Các khoa học xã hội hợp thành cơ sở khoa học cho các chủ trương, đường lối, chính sách góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nó có vai trò quan trọng trong giáo dục tư tưởng, tác động đến người lao động, đến tổ chức quản lý sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Vì vậy khoa học xã hội-nhân văn luôn được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng. Nhận thức đúng vai trò, chức năng đó, nên công tác Khoa giáo đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo khoa học xã hội-nhân văn.
Năm 1958, Uỷ Ban khoa học xã hội được thành lập để xúc tiến công tác nghiên cứu khoa học. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đề ra: "Trong lĩnh vực khoa học xã hội phải dần dần xây dựng các ngành cần thiết, trước mắt đi sâu vào triết học, kinh tế chính trị học để góp phần thúc đẩy công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà". Thời gian đầu Ban Khoa giáo chưa hình thành tổ chức riêng về khoa học xã hội. Về sau do yêu cầu bức thiết mở rộng và nâng cao chất lượng giảng dạy các khoa học Mác - Lênin, vào cuối 1976 Vụ Chính trị được thành lập, làm nhiệm vụ theo dõi nội dung và tổ chức giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học và cao đẳng. Đến tháng 5/1977, Vụ khoa học xã hội được thành lập để giúp Ban theo dõi hoạt động của lĩnh vực khoa học xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ V (tháng 4/1982) nêu các nhiệm vụ của khoa học xã hội: Mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tăng cường công tác lý luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội, làm cho công tác lý luận gắn chặt với việc nghiên cứu xác định, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực hiện đường lối của Đại hội, năm 1987, Ban Khoa giáo cùng các cơ quan trong hệ thống khoa học xã hội đã tổ chức nghiên cứu, thảo luận đưa ra hệ thống 16 chương trình nghiên cứu phục vụ cho việc xây dựng Cương lĩnh và Chiến lược, chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ VII. Ban Khoa giáo phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo để xác định nội dung cải tiến các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa cộng sản khoa học và Lịch sử Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của các ngành khoa học xã hội là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của thế giới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 (khoá VIII) đã chỉ rõ nhiệm vụ của khoa học xã hội và nhân văn: Vận dụng sáng tạo lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản hiện đại, những biến đổi trong các quan hệ quốc tế; dự báo xu hướng phát triển của thế giới, khu vực và đất nước. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Để góp phần triển khai Nghị quyết Trung ương 2, Ban Khoa giáo Trung ương phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thực hiện chương trình khoa học xã hội cấp Nhà nước về "Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".
Trong các Văn kiện của các đại hội IX,X,XI,XII, bộ phận khoa học xã hội đều có nhiều đóng góp cung cấp luận cứ khoa học, đề xuất nhiều nội dung, quan điểm và giải pháp cho khoa học xã hội. Những vấn đề chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, vấn đề xây dựng và phát huy nhân tố con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, đấu tranh, phê phán, bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái; khẳng định chủ quyền quốc gia đối với Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đều có sự đóng góp của công tác khoa giáo.
Cùng với khoa học công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn còn chỉ đạo nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân; công tác chính trị tư tưởng trong đội ngũ trí thức khoa học. Ban Khoa giáo thông qua Hội đồng Khoa học các ban Đảng, chỉ đạo việc thực hiện nhiều đề tài khoa học. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới; ngày càng làm sáng tỏ hơn nhiều luận điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng trong việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phát triển tư duy lý luận, nâng cao nhận thức chính trị của người dân; cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định đường lối, chính sách đổi mới đất nước” [15].
3) Đề xuất quan điểm về xây dựng chính sách đối với trí thức khoa học công nghệ
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng. Tháng 7/1957, Đảng công bố chính sách đối với trí thức: “Sử dụng trí thức đúng tài năng, sắp xếp công tác cho hợp lý theo nguyên tắc có tài, có đức, có chức, có quyền”. Bước vào giai đoạn đổi mới, tại Đại hội lần thứ VI, những vấn đề về trí thức được đưa ra xem xét và phê chuẩn. “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển; đồng thời cũng đòi hỏi người trí thức phải cống hiến cho đất nước bằng những sáng chế, bằng kết quả đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, bằng việc nghiên cứu giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội”.Tiếp đến công tác khoa giáo đã đóng góp tích cực trong việc tham gia soạn thảo các nghị quyết liên quan đến công tác trí thức của Đảng, như Nghị quyết 07-NQ/HNTW khóa VII về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghị quyết 02-NQ/HNTW khóa VIII về giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, Nghị quyết 03-NQ/HNTW khóaVIII về chiến lược cán bộ. v.v...
Chịu trách nhiệm quản lý đội ngũ trí thức trước Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, công tác khoa giáo đã phối hợp với Ban Cán sự đảng các bộ, ngành thuộc khối khoa giáo và Đảng đoàn của Liên hiệp các Hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam để hướng hoạt động của đội ngũ trí thức vào các nhiệm vụ trong từng thời kì cụ thể. Khoa giáo đã chủ trì chuẩn bị để Ban Bí thư khóa VI xem xét về vấn đề củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Ngày 11/4/1988, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW “về củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam”. Đó là, “Ban Khoa giáo Trung ương giúp Ban Bí thư trực tiếp theo dõi, hướng dẫn hoạt động Liên hiệp Hội”...“Tổ chức Đảng của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trực thuộc Đảng ủy khối khoa giáo Trung ương” và ở địa phương.
Để nâng cao vị thế của Liên hiệp hội, Ban Khoa giáo tham mưu để Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII ban hành Chỉ thị 45-CT/TW, ngày 11/11/1998 về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuât Việt Nam: Liên hiệp Hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, cùng với đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; Liên hiệp Hội gồm các hội khoa học và kỹ thuật ngành và các Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật địa phương tự nguyện gia nhập Liên hiệp Hội.
Đóng góp của công tác khoa giáo là thường xuyên đổi mới nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của trí thức khoa học và công nghệ, hình thành một xã hội biết trọng dụng trí thức, phát triển dựa trên tri thức. Khoa giáo đã đặt trọng tâm của công tác trí thức là xây dựng chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ trí thức khoa học và công nghệ, tạo môi trường thuận lợi để trí thức khoa học và công nghệ phát huy mọi khả năng sáng tạo, cống hiến sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Việc xây dựng chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ đã bảo đảm tính kế thừa, toàn diện và phát triển để hình thành một đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Điều đó thể hiện Ban Khoa giáo có các nghị quyết riêng về công tác trí thức. Đối với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ngày 16/4/2010, bộ phận Khoa giáo của Ban Tuyên giáo đã chuẩn bị Chỉ thị số 42-CT/TW, của Bộ Chính trị khóa X và ban hành “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; Sau 10 năm, Ban Tuyên giáo đang xây dựng Đề án Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW trình Ban Bí thư.
3. Hoạch định công tác y tế, chăm lo việc bảo vệ sức khỏe cho toàn dân
Vai trò, tầm quan trọng của công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm ngay từ khi mới ra đời. Tùy điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn, Ban Khoa giáo Trung ương đã tích cực giúp việc cho Trung ương và đã được những thành tựu sau:
1)Tham mưu cho Trung ương ban hành những nghị quyết để nền y tế Việt Nam phát triển nhằm chăm lo sức khỏe cho nhân dân
Theo dòng lịch sử, Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Khoa giáo chỉ đạo ngành Y tế đã tập trung vào ba nhiệm vụ: Mua sắm dự trữ bông băng, thuốc; đào tạo cấp tốc nhân viên y tế, cứu thương; sơ tán tài sản, trang thiết bị, dụng cụ y tế ra khỏi các thành phố. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác y tế đã tập trung thực hiện mục tiêu của Đảng là: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”. Các hoạt động của ngành Y tế trong cả nước như phòng bệnh, chữa bệnh, sản xuất phân phối thuốc, dụng cụ y tế... đều nhằm mục tiêu trên. Đã xây dựng một tổ chức y tế để phục vụ sức khoẻ cho quân đội đó là Cục Quân y (tháng 3/1946. Từ năm 1950 trở đi, công tác bảo vệ sức khoẻ bộ đội và dân công được quan tâm... đã góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Ngày 11/11/1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa II đã ra Nghị quyết số 50 - NQ/TW "Về việc thành lập Tiểu ban Y học Trung ương để lãnh đạo chặt chẽ hơn nữa công tác y tế”. Đại hội Đảng lần thứ III (năm 1960) chỉ ra: “Con người là vốn quý nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ của con người là nghĩa vụ và mục tiêu cao quý của các Ngành y tế và thể dục thể thao”.
Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Khoa giáo góp phần quan trọng với Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 226-CT/TW (ngày 17/11/1975) về công tác y tế trong tình hình mới. Ban Khoa giáo Trung ương cùng Bộ y tế vừa chỉ đạo tiếp quản, cải tạo hệ thống y tế sẵn có, chuyển hướng hoạt động theo đường lối y tế xã hội chủ nghĩa thống nhất trong cả nước, vừa tích cực xây dựng tổ chức y tế huyện, xã đủ sức chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
Nghị quyết Đại hội IV của Đảng (năm 1976) ghi rõ: “Công tác y tế và công tác TDTT phải tích cực góp phần nâng cao sức khỏe và bồi dưỡng thể lực của nhân dân”. Đến Đại hội VII của Đảng lại nhấn mạnh quan điểm: "Bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân phải trở thành hoạt động tự giác của mỗi người, với sự quan tâm của Nhà nước và toàn xã hội. Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của nhân dân theo hướng dự phòng là chính; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc...". Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, ngành Khoa giáo tiến hành soạn thảo văn bản, lấy ý kiến các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cấp ủy địa phương và cơ sở để trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương thảo luận và ra Nghị quyết về "Những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân". Ngay sau khi Nghị quyết 04-NQ/HNTW được ban hành, việc đổi mới các hoạt động y tế được đẩy mạnh.
Tinh thần cốt lõi của các quan điểm đó tiếp tục được trình bày trong Văn kiện các Đại hội VIII, IX,XI, XII của Đảng. Đồng thời Ban Khoa giáo còn tham gia xây dựng các nghị quyết chỉ thị cụ thể. Đó là các Nghị quyết: Ngày 23/2 /2005 Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết 46/NQ-TW về “công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ...”. Ngày 30/11/2005 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị 54-CT/TW về “tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS....”. Ngày 4/7/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về phát triển nền đông y Việt Nam và Hội Đông y Việt Nam...”, Chỉ thị 08-CT/TW, ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm..”. Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 25/10/2017 tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.
Đầu năm 2020, bộ phận khoa giáo đã tham mưu về công tác phòng, chống dịch bệnh và kiến nghị Ban Bí thư ban hành Công văn số 79-CV/TW ngày 29/01/2020 về việc phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vi rút Cô-rô-na gây ra. Công tác tham mưu đã tập trung vào chỉ đạo các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương tiếp tục phối hợp triển khai thực thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát công tác phòng, chống dịch bệnh Covid - 19.
2). Qua tâm đến vấn đề gia đình, chăm sóc bảo vệ trẻ em
Ngay từ khi thành lập nước, Đảng chú trọng đến việc giữ gìn, bảo vệ, củng cố và xây dựng gia đình Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến vai trò của gia đình đối với sự phát triển của con người và xã hội. Tư tưởng của Người đã được Đảng ta quán triệt trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mọi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt luật hôn nhân và gia đình” [16].“Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”[17] là mục tiêu được Đảng quan tâm.
Công tác Khoa giáo coi đây vấn đề lớn, hết sức hệ trọng của dân tộc và của cả thời đại, đầu tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Chúng ta đã thực hiện khá tốt các Mục tiêu Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh; tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; giảm tỷ lệ hộ nghèo, củng cố và hỗ trợ gia đình nuôi dạy con cái khỏe mạnh . Trải qua các thời kỳ khác nhau, Đảng có nhiều chủ trương, chính sách nhằm lãnh đạo phát triển các lĩnh vực dân số, gia đình & trẻ em. Một trong những quan điểm cơ bản chi phối toàn bộ đường lối của Đảng ta là coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trẻ em là lớp măng non, là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc.
Tham mưu về lĩnh vực gia đình được công tác khoa giáo thực hiện thông qua việc tổng kết nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Đó là tham mưu trong Nghị quyết số 47-NQ/TW, ngày 22/03/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách Dân số-Kế hoạch hóa gia đình”; Nghị quyết số 46-NQ/TW, ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Chỉ thị số 38-CT/TW, ngày 07/9/2009 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình mới. Công tác Khoa giáo cũng nhận diện rõ được những khó khăn và thách thức của gia đình, do đó đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển gia đình Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thông qua việc tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khoa giáo Trung ương đã soạn thảo và trình Bộ Chính trị ký ban hành Chỉ thị số 55- CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ chăm sóc gia đình trẻ em. Năm 2012, Ban Tuyên giáo trình Trung ương ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 05/11/2012 về “Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới” với nội dung quan trọng đặt trẻ em vào trọng tâm các vấn đề xã hội, phải lồng ghép các chỉ tiêu về trẻ em trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Văn kiện tại Đại hội lần thứ XII của Đảng đã đề cập đến công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em... Năm 2017, Ban Tuyên giáo Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì phối hợp với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội triển khai thực hiện Đề án sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 20-CT/TW. Đến nay công tác trẻ em đã đạt được những kết quả tốt.
3) Đẩy mạnh tham mưu về thể dục thể thao,”làm cho nòi giống ngày càng thêm mạnh”
Để tham mưu về công tác này đã có nhiều đơn vị được hình thành và phát triển từ trước cho đến nay. Ban Tuyên huấn văn giáo Trung ương đã thành lập Vụ Y tế và thể dục thể thao để giúp Ban thực hiện chức năng tham mưu cho Trung ương Đảng những vấn đề về quan điểm, chủ trương, chính sách trong lĩnh vực TDTT và y tế. Năm 2002, Vụ Y tế - TDTT đổi tên thành Vụ Sức khoẻ. Nay bộ phận TDTT thuộc vụ Các vấn đề xã hội.
Trong quá trình hoạt động, Ban Khoa giáo Trung ương tích cực góp phần nghiên cứu đề xuất nhiều chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực thể dục thể thao TDTT, cũng như hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện công tác này ở các cấp, các ngành trong cả nước.
Về đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành ngay từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung, hoàn chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền TDTT nước nhà. Xin nhắc qua một vài nghị quyết quan trọng của Đảng về TDTT. Ngay từ năm 1941, Chương trình Việt minh đã ghi: "Cần khuyến khích nền thể dục quốc dân, làm cho nòi giống ngày càng thêm mạnh". Tháng 3/1946, trong lúc chính quyền cách mạng còn non trẻ đang gặp vô vàn khó khăn, đất nước trong tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên toàn dân tập thể dục để nâng cao sức khoẻ. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương và biện pháp nhằm lãnh đạo phát triển TDTT để phục vụ nhiệm vụ khôi phục kinh tế, văn hoá, khắc phục hậu quả chiến tranh. Ngày 2/10/1958, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 106-CT/TW về công tác TDTT: các cấp uỷ Đảng cần đặt nhiệm vụ lãnh đạo công tác TDTT thành nhiệm vụ thường xuyên, phân công người có năng lực để trực tiếp phụ trách. Năm 1960, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 181-CT/TW (ngày 13/1/1960) để đánh giá tình hình thực hiện Chỉ thị 106-CT/TW và quyết định một số biện pháp đẩy mạnh công tác TDTT, thành lập Đảng đoàn Ủy ban Thể dục thể thao trung ương; tiếp tục xác định trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc lãnh đạo công tác TDTT. Ngày 18/11/1975, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 227-CT/TW xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác TDTT trong bối cảnh đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Chỉ thị của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển các môn thể thao, mở rộng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu thể thao, nâng cao thành tích các môn thể thao; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công tác nghiên cứu khoa học TDTT; kiện toàn hệ thống tổ chức chuyên trách TDTT ở các cấp, các ngành trong cả nước.
Ban Khoa giáo Trung ương cùng với Ban Cán sự đảng Tổng cục TDTT đã chuẩn bị và kiến nghị Ban Bí thư Trung ương ban hành Chỉ thị 36-CT/TW ngày 24/3/1994. Chỉ thị đã đề ra bốn quan điểm phát triển TDTT và ba mục tiêu của công tác TDTT trong giai đoạn mới, đồng thời chỉ rõ các giải pháp và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và các ngành, đoàn thể trong công tác TDTT. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hóa đất nước. Về nhiệm vụ trong lĩnh vực TDTT, Đại hội nêu rõ: "Phát triển phong trào TDTT sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh, thiếu niên; tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang.Mở rộng quan hệ quốc tế về TDTT. Từng bước hình thành lực lượng thể thao chuyên nghiệp".
Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 1/12/2011 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020. Khoa giáo cũng đã tham mưu để Trung ương chỉ đạo các tỉnh ủy, thành ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy những kết quả đạt được, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW, đưa nền thể dục, thể thao nước nhà phát triển thực chất, bền vững, góp phần thực hiện có hiệu quả Chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
4. Huy động sức mạnh tổng hợp, bồi dưỡng nghiệp vụ và tạo điều kiện để hệ thống khoa giáo địa phương đạt nhiều kết quả
Đảng là một cơ thể sống bao gồm các cơ quan đầu não ở trung ương cùng tất cả các tổ chức đảng ở địa phương và cơ sở. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đều phải được triển khai thực hiện ở từng địa phương, cơ sở. Đây là nhân tố quan trọng, không thể thiếu để giúp các cấp uỷ đảng nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo đối với các mặt công tác khoa giáo. Vì vậy, công tác Khoa giáo đã: coi trọng việc xây dựng hệ thống khoa giáo trong Ban Tuyên giáo cấp tỉnh, cấp huyện; thường xuyên hướng dẫn công tác và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ khoa giáo cấp tỉnh, cấp huyện; đôn đốc các cấp uỷ đảng ở địa phương bổ sung cán bộ để kiện toàn bộ phận khoa giáo trong Ban Tuyên giáo các cấp; liên tiếp mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề cho đôị ngũ cán bộ khoa giáo cấp tỉnh, cấp huyện.
Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ và các hội nghị chuyên đề được tổ chức theo từng vùng hoặc từng cụm tỉnh đã góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ khoa giáo các cấp. Một nét đặc sắc trong công tác khoa giáo là tăng cường kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở cả các ngành và các địa phương; đồng thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về các lĩnh vực công tác khoa giáo. Nhờ đó đã thúc đẩy việc đưa nhanh các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào cuộc sống. Hình thức bồi dưỡng cán bộ khoa giáo cấp tỉnh, cấp huyện qua thực tế công tác đã lôi cuốn được các đồng chí trong Ban Thường vụ cấp uỷ đảng ở địa phương tham gia kiểm tra và chỉ đạo các mặt công tác khoa giáo.
Về phía Ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc việc triển khai thực hiện và sơ kết, tổng kết, theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh về lĩnh vực khoa giáo xuống các cơ sở. Ban tuyên giáo các tỉnh, thành phố đã xây dựng Hướng dẫn công tác khoa giáo hàng năm, trong đó nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm; tham mưu cho cấp ủy ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn các cấp, các ngành ở địa phương thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng trên lĩnh vực này. Nhiều nơi duy trì đều đặn giao ban công tác khoa giáo theo quý, nội dung giao ban có nhiều đổi mới, thảo luận sâu những vấn đề được dư luận quan tâm hoặc những vụ việc phức tạp phát sinh trên địa bàn, nhằm tìm ra giải pháp tháo gỡ hoặc tham mưu, đề xuất cấp ủy chỉ đạo, từng bước giải quyết những tồn tại kéo dài. Thông qua giao ban đã làm rõ trách nhiệm của từng sở, ban, ngành trong việc tham mưu thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về lĩnh vực khoa giáo để kịp thời khắc phục.
Công tác theo dõi, phối hợp giữa ban tuyên giáo và các ngành trên lĩnh vực khoa giáo đạt nhiều kết quả tích cực, tạo chuyển biến quan trọng trong việc gắn hoạt động khoa giáo vào thực tiễn của địa phương. Hầu hết các lĩnh vực khoa giáo đều có bước tiến bộ, phát triển đúng hướng; nhiều mô hình, dự án, đề tài về chủ đề gia đình, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm... được triển khai.
Vừa qua Ban Tuyên giáo ra Hướng dẫn số 77-HD/BTGTW, ngày 26/12/2018 về công tác khoa giáo năm 2019. Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy đã triển khai thực hiện nghiêm túc công tác khoa giáo trên địa bàn theo Hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hiện nay, ban tuyên giáo các tỉnh, thành phố đang định hướng, chỉ đạo hệ thống truyền thông ở từng địa phương tuyên truyền sâu rộng về những điểm mới trong thi vào và thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng; một số địa phương có vụ việc tiêu cực trong chấm thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2018 cũng đã và đang chủ động nắm bắt dư luận xã hội, phản ánh, định hướng để tránh những hệ lụy đáng tiếc đối với học sinh khi phải xử lý sai phạm. Với việc tích cực tham mưu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền của ban tuyên giáo ở từng địa phương, chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân nhân, bảo vệ, giáo dục trẻ em được nâng lên.
Nhìn lại chặng đường 90 năm qua, Đảng ta luôn luôn quan tâm phát triển các lĩnh vực công tác có liên quan đến việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Có thể nói một trong những tư tưởng lớn của Đảng là đề cao vị trí, vai trò của khoa học và giáo dục vì nó gắn liền với việc tạo ra nguồn lực nội sinh có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng cũng như xây dựng và bảo vệ phát triển đất nước. Trải qua các thời kỳ khác nhau, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm lãnh đạo phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Với chức năng tham mưu giúp việc của Trung ương Đảng, lĩnh vực khoa giáo nâng cao hiệu quả công tác và có những đóng góp xứng đáng vào việc xây dựng và từng bước hoàn thiện các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng đối với công tác khoa học, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Kết quả quan trọng của công tác khoa giáo là đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm cho các công tác khoa giáo phát triển đúng hướng và phục vụ đắc lực nhiệm vụ và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn./.
PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ
Nguyên Phó trưởng Ban Khoa giáo Trung ương
TÀI LIỆU THAM KHẢO[18]
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000 (các tập có liên quan đến nội dung bài viết)
- Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000 (các tập có liên quan đến nội dung bài viết)
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2012), 80 năm Ban Tuyên giáo Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Ban Khoa giáo Trung ương,(1998), Ban Khoa giáo Trung ương 30 năm xây dựng và phát triển 91968-1998),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Ban Khoa giáo Trung ương,(2005) Một số văm kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác Khoa giáo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
- Sổ tay công tác của Ban Khoa giáo Trung ương
- Ban Khoa giáo Trung ương,(1978), Công tác khoa giáo địa phương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
.
[1]Tài liệu lưu tại Cục Lưu trữ văn phòng TW Đảng, số ĐBBQ 19, STT06.)
[2] Nền giáo dục của Việt Nam đầu thế kỷ 20 vẫn là nền giáo dục phong kiến Nho học.Thời Pháp thuộc tập trung vào mở các trường bậc sơ học, chủ yếu đào tạo các chức cai, ký và quan lại nhỏ phục vụ bộ máy cai trị của thực dân, nhằm thực hiện chính sách giáo dục nô dịch và đồng hóa, thực chất là chính sách ngu dân.
[3]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.7.
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.188.
[5].Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.69.
[6]Xem: Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Tổng kết 10 năm công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học,Nxb chính trị-Sự thật, 2000.
[7](cùng Khoa học công nghệ.)
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.51, tr.106.
[9].Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.52, tr.508, 384.
[10]Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề đã tham mưu với lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW
[11]. Ngân hàng Thế giới đánh giá nằm trong 10 hệ thống GD đổi mới hàng đầu khu vực.
[12]Quyết định số 63b-QN/TW ngày 5/6/1949 của Ban Thường vụ Trung ương khóa 2.
[13]Điều này đã được nêu ra tại Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc, ngày 25/11/1945.
[14] Sau này, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chuyển Ban nghiên cứu Văn Sử Địa của Trung ương thành một bộ phận của Bộ Giáo dục.
[15]Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị Trung ương lần 6 BCH TW khóa IX, Nxb CTQG, HN, 2002, tr. 75.
[16]V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng toµn quèc §CSVN lÇn thø VIII.
[17]Cương lĩnh chính trị.
[18] Các tài liệu này được tham khảo ngoài những tư liệu được dẫn dưới bài.